Powered By Blogger
LŨY TRE LÀNG CHE CHỞ HỒN DÂN TỘC.
(Ngăn giặc thù, bảo vệ giống nòi)
Việt Nam ta là một quốc gia có trữ lượng tre khá lớn, có mặt ở khắp các vùng miền trên cả nước. Tre là một nhóm thực vật thường có thân gỗ bên ngoài màu xanh sống lâu, tuổi thọ trung bình 60-70 năm, đôi khi cã trăm năm. , thuộc Bộ Hòa thảo, Phân họ Tre, Tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và được coi là lớn nhất trong Bộ Hòa thảo. Tre cũng là một loại thực vật có hoa, nhưng chỉ nở hoa một lần duy nhất vào lúc cuối đời. Thường thì tre có thời gian nở hoa trong khoảng 60 – 70 năm một lần. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất, chúng ta có thể bắt gặp cây tre ở khắp nơi trên toàn cõi Việt Nam. Cây tre Việt Nam mọc thành lũy thành rừng, hình thành cả một biển tre xào xạc đón từng cơn gió ngàn tràn về. Còn nữa là bờ tre uốn khúc quanh co làm bạn cùng dòng sông trong xanh chảy dài. Rễ tre bám chặt bờ đất phì nhiêu, kiên cường như người vệ sĩ bám đất bám bờ ngăn chặn những cơn lũ hung dữ. Còn nữa là những xóm thôn làng mạc được che chở bao bọc bởi những lũy tre trùm bóng mát rượi, cây tre luôn sát cánh cùng với những người dân làng chắn gió che mưa, chứng kiến bao sự thăng trầm của lịch sử.
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược từ phương bắc, chống thiên tai, che chở hồn dân tộc tránh sự đồng hóa và tiêu diệt văn hóa phong tục tập quán của Việt tộc. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn công hay phòng thủ trong các cuộc chiến. 

Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giành Độc lập,Tự do cho Tổ Quốc.

Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương, Ông Dóng dùng tre đánh giặc Ân.

“Đứa thì sứt mũi , sứt tai.
Đứa thì chết tốt vì gai tre ngà”

Những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán.

”Đánh giặc thì đánh giữa sông.
Chớ đánh trong cạn, phải chông mà chìm”


Đám tre ngà vốn là rừng tre ở phía Đông Bắc làng Thất Gian,xã Châu Phong ngày nay.Đầm Thất Gian là chỗ đất lõm xuống do Ông Dóng nhổ tre giết giặc.

“ Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,...” Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt.



Tre "ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp", "sống có nhau, chết có nhau chung thủy". Tre "mộc mạc", "nhũn nhặn" mà nhẫn nại không chê đất cằn, thì sá gì sương gió. Tre "ngay thẳng, thủy chung, can đảm", giàu lòng vị tha, bao dung, đùm bọc. Tre "thanh cao, giản dị, chí khí như người quân tử". "Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm".

Có thể nói rằng cây tre là biểu tượng cho phẩm chất đặc sắc nhất của con người Việt Nam: đoàn kết, thủy chung, thanh cao, bất khuất. Là đức tính kiên cường ẩn tàng trong khả năng bền dẻo trước mọi tai họa thiên nhiên cũng như mọi biến thiên, bão táp và bi kịch chính trị của lịch sử, có thể  đến từ mọi phía từ nội lẩn ngoại tại, để trường tồn và phát triển. Tre còn là chiến lũy thép trước xâm lăng và bão lũ. Tre nhẫn nại, oằn mình, ngả rạp trước cuồng phong, bão lớn, để khi gió yên trời lặng lại vươn mình đứng thẳng thành bức tường che chắn vững chắc cho dân làng. Tre già măng mọc thể hiện được sự trường tồn và đi tới của tộc Việt. Măng tre là món ăn ngon và rẻ tiền, có thứ đắng, thứ chát. Bambusa dulcis là loại tre cho măng ngọt. Phải nấu chin măng mới mất hết vị chát. Măng tre được người Việt yêu chuộng. Phải hái măng đúng lúc vừa nhú đầu lên khỏi mặt đất, măng mới ngon, nhưng phải tránh gió to, nắng lớn vì măng sẽ mất nước, khô cứng, ăn đắng chát. Do đó măng đào xong phải để chỗ không có nắng hay ăn liền.Tre xanh hiên ngang, nhũn nhặn, cứng cáp mà dẻo bền vô hạn nên xứng đáng là biểu tượng của cốt cách của một quân tử và các phẩm chất đặc sắc của con người và văn hóa đa dạng của Việt tộc. 

Cây tre cũng gắn bó với người nông dân VN từ nghìn năm nay. Tre làm nhà cửa cùng vô số vật dụng thân quen: cái rổ, cái rá, cái cần câu, cái vó, cái đó, bè mảng, cầu ao và cả những cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ…Trong sản xuất nông nghiệp những cái cày, cái bừa, cái rọ trâu, cái đòn gánh sẽ không thể có nếu thiếu bóng dáng tre. Trong nghệ thuật trang trí, tre còn là những vật  dụng để trang trí nội thất cho các phòng trà, quán cà phê, nhà hàng, quán nhậu...

Phim tài liệu trong nước về cây tre VN
Tre dẻo dai bền bỉ, vì có tính đàn hồi tốt và dễ hình thành tác dụng cộng hưởng, là loại vật liệu thiên nhiên lý tưởng dùng để chế tác nhạc cụ. Nhiều loại nhạc cụ tiêu biểu tại Việt Nam đều được chế tạo bằng vật liệu tre, mà trong đó cây đàn bầu là một ví dụ điển hình. Đàn bầu là nhạc cụ rất được cộng đồng người Kinh—dân tộc lớn nhất tại Việt Nam ưu ái. Vào giai đoạn đầu thì cây đàn bầu được tổ hợp bởi vài khúc tre, có hình kéo dài, phần dưới không có bệ, sợi dây kim loại được gắn chặt suốt từ đầu chí cuối cây đàn, còn một mặt khác thì xuyên qua chiếc hồ lô hình loa kèn rồi cắm lên đầu một phên tre ngay đầu cây đàn. Khi biểu diễn, người diễn tấu tay trái giữ lấy phên tre nhỏ để điều tiết âm lượng, tay phải dùng một tấm phên tre nhỏ gảy lên dây đàn phát ra âm thanh du dương êm ái ngân dài. Ngoài cây đàn bầu, Việt Nam còn có nhiều loại nhạc cụ khác cũng được chế tạo bằng vật liệu tre như đàn tre, đàn Tơ-rưng, đàn công, đàn nước v.v… đều có tiếng tăm trong và ngoài nước.

Vốn mộc mạc gần gũi và thân thiết với các thời kỳ của dân tộc, tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học nghệ thuật. Nói rằng " thành vì tre bại cũng vì tre" quả không sai. Từ những câu chuyện cổ tích ( Nàng Ưt ống tre, cây tre trăm đốt,...) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre.

TRE TRONG VĂN HỌC
Ca dao:
*Làng tôi có luỹ tre xanh 
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng. 

*Một cành tre, năm bảy cành tre 
Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng.

*Một vợ tát nước bờ ao
Phải trận mưa rào đứng lấp bụi tre

*Con mèo, con chó có lông 
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.

Tục ngữ:
- Tre già khó uốn. 
- Tre già là bà lim. 
- Có tre mới cho vay hom tranh. 
- Tre già măng mọc. 
- Tre non dễ uốn. 
- Tre già nhiều người chuộng, người già ai chuộng làm chi. 

Mấy Nhịp Cầu Tre
Tác giả: Hoàng Thi Thơ

Làng tôi, nghe đu đưa mấy nhịp cầu tre 
Làng bên, băng qua kinh nối tình miền quê 
Buồn vui dân trong làng ra nghỉ trưa hè 
Lặng mà nghe ai hát đêm về. 

Hỏi rằng, ai nâng niu mấy nhịp cầu tre 
Lặng nghe, ai ca trong nắng chiều vàng hoe 
Cầu tre bao nhiêu hè vui một câu vè 
Để lòng ai quên hết não nề.

TRONG VĂN HÓA DÂN GIAN
1.Truyện cổ tích Cây tre trăm đốt
2.Tre già măng mọc
3.Phù Đổng Thiên Vương, người anh hùng dân tộc cưỡi ngựa sắt với bó tre trong tay 

TRE TRONG VÕ HỌC

VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO nhìn cây tre ở nhiều góc độ khác nhau để tìm ra một nguyên lý căn bản trong việc phát triển bộ môn võ thuật của mình, đó là: " Cương nhu phối triển". Các đời võ sư sáng lập đã lấy cây cây tre làm biểu tượng cho việc diển đạt tính âm dương, cương nhu hòa hợp để tạo cho môn phái Vovinam một hướng đi đặc trưng cho Vovinam.

Cho nên, hệ thống kỹ thuật Vovinam Việt Võ Đạo bao gồm những đòn thế nhu nhuyễn, các đòn cương mãnh và ngay trong bản thân từng đòn thế cũng chứa đựng sự kết giao giữa cương – nhu, giống nhu sự giao hòa giữa âm – dương trong thiên nhiên và xã hội. Cương nhu phối triển không đơn thuần là sự bao hàm cả 2 tính cương và nhu mà nó linh động và biến hóa. Có lúc cương nhiều, nhu ít; có khi cương ít nhu nhiều; có lúc nửa cương nửa nhu, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt, nguyên lý này còn cần được người học võ Vovinam Việt Võ Đạo rèn luyện ngay trong đời sống tinh thần và cách hành xử hàng ngày vì: "Cương tượng trung sự hào hùng, ý chí sắt thép, lòng cương quyết và đức Dũng của con nhà võ. Nhu biểu tượng tính nhu hòa, điềm đạm và lòng Nhân của người võ sĩ. Có cương mà không có thiếu nhu sẽ không biến hóa, linh hoạt theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, có nhu nhưng thiếu cương sẽ không thể phát huy được hiệu quả tối đa."
TRE MỘT DƯỢC THẢO QUÝ MÀ KHÔNG HIẾM :
Trong y học, tre được xem là một loại cây thuốc dễ tìm, chế biến đơn giản, đa dụng, có hiệu quả điêu trị tốt một số bệnh. Tre được nhác đến trong các tác phẩm y học kinh điển như Bản thảo cương mục của Lý thời Trân, Thương hàn luận của Trương Trọng Cảnh, Lĩnh nam bản thảo của Hải Thượng Lãn Ông, Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh và hầu hết các sách y dược học truyền thống của Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc,…Toàn thân cây tre từ gốc đến ngọn đều là vị thuốc quý nhưng không hiếm:

Tầm gửi cây tre: tầm gửi cây tre kết hợp với dây thìa canh, lá cây Cúc mẳn đun lấy nước đem nấu chung với tụy lợn để chữa bệnh đái tháo đường tuyp II.
Búp tre gọi là Quyển tâm trúc lịch đem đun sắc cùng với thân tre tươi cắt ngắn, chẻ nhỏ tốt nhất là của loại tre Đằng ngà chữa đái máu, sạn sỏi tiết niệu. Để chữa sỏi tiêt niệu, người Thái ở vùng tây bắc thường chỉ đơn thuần dùng búp tre.
Lá tre ngoài việc sử dụng để xông cho ra mồ hôi; khi đem kết hợp với bèo cái, lá Ngải , rễ cỏ Tranh, Ích mẫu, Kinh giới chữa viêm cầu thận cấp rất hiệu quả. thân tre Đằng Ngà cắt ngắn, chẻ nhỏ đun cùng với mía giò chữa đài buốt, đái rắt.
Thiên trúc Hoàng:Trong lòng những cây tre cụt ngọn thường có 1 loại bột phấn màu trong suốt gọi là là Thiên trúc hoàng có tác dụng thanh tâm tả hỏa rất mạnh. Sử dụng kết hợp thiên trúc hoàng 40gr và với Liên kiều liều tới 100gr trong trường hợp viêm não Nhật bản B cấp tính.
Măng vòi còn gọi là tay tre non, cắt ngắn, giã lọc lấy nước cùng với lá cây Kiến cò có tác dụng hạ cơn cao huyết áp rất tốt;
Thanh trúc lịch: cạo phần tinh tre ngoài cùng ta được Nhất thanh trúc lịch, phần sâu hơn làm cật, lạt thuộc loại Nhị thanh trúc lích, phần sâu hơn nữa có màu trắng gọi là Tam thanh trúc lịch. Nhất thanh trúc lịch có tác dụng cầm máu do đứt tay, đứt chân. Nhị, Tam thanh trúc lịch sao vàng đun với đất lòng bếp có tác dụng an thai hiệu quả cao. Nhất là các trường hợp thai phụ tăng cơn co tử cung, chảy máu sinh dục, dọa sảy.
Nấm gốc tre gọi là Lôi hoàn ít nhiều có độc, được sử dụng là thuốc trừ giun và sán.
Cuối cùng là hoa tre: Tuy tre rất ít thấy nở hoa nhưng hoa tre rất quý trong việc chữa động kinh.

Cây tre mộc mạc, chân phác, bình dị, thân thuộc với làng quê Việt nam trải suốt hàng nghìn năm lịch sử dân tộc Việt. Trong chiến tranh chông tre giúp dân ta giữ làng giữ nước, khi hòa bình cây tre giúp con người xây dựng nhà cửa, giữ gìn văn hóa làng quê, Và cây tre còn chữa bệnh cho con người Việt nam.

TRE TRONG CHIẾN TRANH
Tre là loại rừng được sử dụng nhiều trong chiến tranh từ xưa cho đến nay, như cọc Bạch Đằng từng đâm thủng thuyền quân giặc xâm lược Bắc Phương, làm cung tên cho quân Đại Việt trong thời trung cổ. Đến thời chống Pháp của Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám trong thời gian (1885–1913), ông dùng tre để xây dựng đồn Phồn Xương (thuộc thị trấn Cầu Gồ ngày nay) thành căn cứ kháng chiến kiên cố để chống Pháp ròng rã 30 năm, khiến Pháp phải vất vã mới triệt hạ được căn cứ này của anh hùng dân tộc Đề Thám. 

http://dulichbacgiang.gov.vn/diem-du-lich/di-tich-lich-su-van-hoa/don-phon-xuong-thu-phu-cua-cuoc-khoi-nghia-yen-the-274.html.


Trong thời đệ nhất cộng hòa tre đã được xử dụng  xây dựng thế phòng thủ cho các Ấp chiến lược để tiêu diệt các cơ sở hạ tầng của cộng sản Bắc Việt phá hoại miền nam VN từ năm 1961 trở đi, sau khi cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời năm 1960. Ngoài ra Tổng Thống Ngô đình Diệm đã dùng bụi trúc trong các quốc uy và các con dấu của các cấp hành chánh VNCH từ hạ tầng lên tới thượng tầng. Bụi trúc trong quốc uy của Tổng Thống mang ý nghĩa "Tiết Trực Tâm Hư", để tượng trưng cho người quân tử. 
http://lybichthuy.blogspot.de/2014/11/tim-hieu-hieu-k-y-tiet-truc-tam-hu-hieu.html


Khi không còn có thể chống chọi được với thiên nhiên bão tố, cả bụi trẻ, cả hàng tre, đều trốc gốc nghĩa là tre sẽ đồng chết tập thể chứ không chết từng cây. Cái yếu tố đoàn kết đồng cam cộng khổ nó hiện trước mắt con người như là một bài học đạo đức giàu tính nhân bản, nhân văn. 

Trong bửa ăn thường nhật hàng ngày Việt tộc thường dùng thân cây tre làm đủa đưa thức ăn vào miệng để nuôi dưỡng sự sống. Đó là một thông điệp của tiền nhân nhắc nhở, chúng ta phải trân trọng và nuôi dưỡng sự trường tồn của Việt tộc trong mọi hoàn cảnh. Khi thế nước cần, một cuộc cách mạng dân tộc có thể xảy ra giải quyết mọi bế tắc nội tại, đưa Việt tộc đi tới và duy trì sự trường tồn của Việt tộc bằng những tư duy cách mạng trong sáng, bằng những hành động thực tế, như vậy mới xứng đáng là con cháu của vua Hùng. trong việc xây dựng một VN minh châu trời đông.

Đặc tính nổi bật nhất của cây tre là càng bị uốn cong bao nhiêu thì sức bật càng mãnh liệt bấy nhiêu, dữ dội bấy nhiêu. Điều này càng thể hiện rõ tính "Cương Nhu Phối Triển" trong nghệ thuật giữ nước của Việt tộc hàng ngàn năm qua. Đứng trước những kẻ thù hùng mạnh cường bạo, hung hiểm, tạm thời ông cha ta thường lánh đi (nhu) để tránh nhuệ khí bị hao hụt. Sau đó chờ cho địch lơi lỏng, chểnh mảng việc quân cơ, ta mới tập trung đánh những trận quyết định (cương) để giành thắng lợi sau cùng.

TÓM LẠI:
Trong cuộc cách mạng cứu nước ở giai đoạn quyết định, để đảm bảo có được thắng lợi, đôi lúc chúng ta cần lùi lại để gầy dựng lực lượng thật vững chắc. Lịch sử giữ nước của bao nhiêu triều đại VN đã chứng minh được cụ thể những điều đó. Với biểu tượng cây tre, dân tộc ta đã nâng việc giữ gìn  một quốc bảo trong việc bảo vệ đất nước, cần phải được bảo tồn và lưu giử  như là một binh thư yếu lược trong nghệ thuật giử nước và cứu nước với biết bao kinh nghiệm vô cùng sống động và phong phú của tiền nhân đã để lại cho các thế hệ đi sau. Và hôm nay hàng ngũ đấu tranh dân chủ cần phải biết dựa vào nguyên lý " cương nhu phối triển" để từng bước đưa cuộc cách mạng dân chủ đến thành công mà ít tốn hao nhất về nhân vật lực.

Trịnh Khánh Tuấn, 15.10.2017

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét