PHÁ TỐNG BÌNH CHIÊM
Nguyễn phú Trọng , Ngô Xuân Lịch và các đỉnh cao trí tuệ của Trung Ương Đảng "Hèn mạt" nên vất lá bùa 16 chử vàng đang đeo trên ngực, rồi tập trung mà học tấm gương giử nước của người xưa. Ngưng ngay việc xây dựng hòa bình với giặc, đừng làm tổn thương thêm các vua quan nhà Lý và tổ tiên Việt tộc. Riêng nhân dân cũng có lời nhắn nhủ với Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng BQP nước CHXHCNVN nên dành chút thời giờ để nghiền ngẫm thêm gương giữ nước của tổ tiên nhà Lý trước sức mạnh của liên minh TỐNG-CHÂN LẠP và CHIÊM. Quốc gia Đại Việt vào thời vua nhà Lý trị vì, bờ cỏi luôn bị đe dọa tứ phía, phía bắc thì quân nhà Tồng, phía nam thì Chiêm Thành còn Tây Nam thì quân Chân Lạp ( Khmer), nhưng dân quân triều Lý không hèn mà đầu hàng giặc, củng không cầu hòa với giặc mà quyết tâm đánh bật liên minh Tống-Chiêm -Chân Lạp ra khỏi bờ cỏi, đồng thời chiếm lại những nơi đã mất trước đó. Một chiến tích lẩy lừng đưa Đại Việt thoát được họa diệt vong, chiến thắng làm Đại Việt giử vững được một thời gian dài cho nền độc lập của Việt Tộc, đồng thời bắt đầu công cuộc mở nước về phía nam để tránh sức ép của Bắc Phương.
ĐẠI VIỆT CHỐNG LIÊN MINH TỐNG -CHIÊM-CHÂN LẠP
Vào thời này, Đại Việt tuy tứ bề thọ địch, nhưng vua quan nhà Lý đã bình tỉnh chống giặc giử vững biên cương và sự trường tồn của Việt tộc. Chẳng những thế mà nhà Lý đã lấy lại được những nơi đã bị Chiêm Thành chiếm trước đo. Kỳ công này đã là một bài học giá trị cho các thế hệ sau.
Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm cho Đại Việt nở hoa. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Vào năm này, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt.
Thời gian các vua Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt xuất của đế quốc Chân Lạp.
Thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.
Trước khi đi vào giai đoạn lịch sử oai hùng của Đại Việt thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, cũng cần nhắc lại bối cảnh lịch sử chính trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông.
BỐI CẢNH LIÊN MINH TỐNG-CHIÊM-CHÂN LẠP
Xin nhắc qua về thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc liên minh chống Đại Việt để thấy sức mạnh của Đại Việt lúc ấy :
Năm Bính Thìn [1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông ( Trung Hoa), còn đang hận chưa lấy được Đại Việt mà còn bị quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh qua nước Tống chiếm châu Ung, châu Khâm trước đó nên họ vẫn còn nuôi mộng đánh chiếm Đại Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía tây nam Đại Việt, để 3 mặt tiến đánh nhằm tiêu diệt Đại Việt đang thời kỳ tự cường, tự chủ và độc lập.
Chiêm Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến năm 1074, Harivarman IV (1074- 1080) lên ngôi , nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có tài, từng đánh bại quân Đại Việt, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành năm 1075.
Trong lúc đó thì Chân Lạp với kinh đô Angkor đã trở thành đế quốc, nhiều lần định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân Lạp, ngự trị ở Angkor, mất vào năm 1050, thì 2 người con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm 1066 Harshavarman III có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công như ý muốn.
Tuy Tống- Chiêm- Chân Lạp thành lập liên minh để âm mưu đánh chiếm Đại Việt nhưng lại không kết hợp chặt chẽ. Liên minh vẫn do quân Tống là chủ yếu, tham chiến dưới sự chỉ huy của Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này tiến đánh Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076] đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống bị quân của danh tướng Lý thường Kiệt đánh cho tan tác và giết được hơn 1000 quân. Trân này do quyết định sáng suốt của Vua Lý Nhân Tông, ông đã sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống. Với nghệ thuật điều quân tài ba của danh tướng Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt đã làm nên đại thắng quân Tống ở trên dòng sông Như Nguyệt, chiến công này rất lẫy lừng trong lịch sử.
CHÂN LẠP CẦU HÒA VỚI ĐẠI VIỆT
Thế kỷ 11, 12 những chiến công “phá Tống bình Chiêm” vang dội của Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu với Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012, 1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, trong trận chiến với Harivarman IV của Champa, khi vua này thân chinh đánh phá Angkor vào 1080.
Năm 1113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn. Và Suryavarman II đã bắt đầu có ý đồ thôn tính Đại Việt. Kể từ đó mối hòa hiếu giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp không còn như trước đó, vì tham vọng thôn tính Đại Việt ngày càng lớn của Suryavarman II. Vào thời Suryavarman II đế quốc Chân Lạp có một lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện tích lãnh thổ Đại Việt.
CHÂN LẠP ĐÁNH ĐẠI VIỆT
Năm 1128, Suryavarman II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp năm Đinh Mùi [1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi trước linh cửu tiên đế. Trong thời gian còn đang lo hậu sự cho tiên đế, thì vua Chân Lạp Suryavarman II đã cử 2 vạn quân sang đánh Đại Việt bắt đầu từ ngày 29 tháng giêng Mậu Thân [1128].
Vua Lý thần Tông liền xuống chiếu triệu thi phó Lý Công Bình vào triều kiến rồi sai ông cử đại binh đi chống giặc Chân Lạp.
Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão, tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù 169 người.
Bị thua đau vào cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế Suryavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc.
Bốn năm sau, Nhâm Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suryavarman II của Chân lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược.
Năm Ất Mão [1135], Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ [1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suryavarman II chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh phá châu Nghệ An.
Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suryavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 1150. Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới…Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Canh Ngọ [1450], Đại Định năm thứ 11…Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ”.
Quân Chân Lạp lúc này vẫn còn do Suryavarman II chỉ huy, không những dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng huống “thiên không thời” (hạn hán kéo dài từ xuân đến thu), “địa chẳng lợi” (Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến, Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), “nhân không hòa”(cả người Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suyrayavarman II đã có một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Có khả năng Suryavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn số ít nên tự tan vỡ. Angko Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh do Suyrayavarman II khai sinh, nhưng cũng là nỗi đau của linh hồn Suryavarman II đang vất vưởng đâu đó trong mây núi Vụ Quang; bởi không có một phiến đá nào ở Angko Wat ghi lại ngày tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng.
Tự hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những hậu duệ kiệt xuất của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập tự chủ.
Sau khi Chân Lạp thất trận trước Đại Việt từ đó: Chân Lạp, Đại Tống và Chiêm Thành rất kiêng nể quân Đại Việt. Nền độc lập và biên giới của chúng ta chẳng những được giử vững mà còn nới rộng thêm về phía nam những thế kỷ sau đó.
Tổ tiên ta thật đáng tự hào với những chiến công đầy hiển hách. Một nước nhỏ như châu chấu mà đá văng mấy cổ xe lớn hơn Đại Việt gấp nhiều lần như Tống, Chân Lạp và Chiêm Thành.
Ôn cố tri tân, để thấy giặc cộng hèn nhát đến mức độ nào?. Khi giặc chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, lập các căn cứ quân sự trên đất Việt, hà hiếp, đâm tàu ngư dân hàng ngày trên vùng biển VN, thế mà đám hèn Quân đội nhăn răng, Hải Quân nhăn răng, Cảnh Sát Biển đều bám bờ lo xây dựng hòa bình với giặc, quyết không làm phức tạp thêm tình hình ở biển đông bỏ mặc sinh mạng của ngư dân và ngư trường cho bắc phương tự tung tự tác. Thật nhục nhã chưa từng thấy trong sử Việt.
Ôi Việt Nam hôm nay là biển lệ!
Chín mươi triệu giòng nước mắt đau thương
Khóc cho mình và khóc cho quê hương
Đang tuyệt vọng mỏi mòn trong lưới nhện.
(trích thơ Phan Huy - Nỗi Đau Dân Tộc )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét