THIỀN SƯ VỌNG NGỮ THÍCH NHẤT HẠNH
Với người Phật tử VNCH ai cũng biết Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ giỏi, giởi đánh lừa người Mỹ và Tây Âu về gương mặt khắc khổ của một tu sĩ Phật Giáo với chiếc áo nâu sòng, đối với người Phật tử VN thì Thiền sư Nhất Hạnh rất giỏi ru ngủ những người khờ khạo,  lầm tưởng ông là một bậc chân tu đạo mạo đức hạnh.

Năm 1966 Âu châu, Mỹ châu phong trào phản chiến bùng nổ lớn chống Hoa Kỳ, chống chiến tranh Việt Nam . Thích Nhất Hạnh được đưa ra hải ngoại để tham gia phong trào phản chiến chống Mỹ, chống Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng Sản. Thích Nhất Hạnh bám vào phong trào đấu tranh của mục sư King, thúc đẩy Mục sư Martin Luther King công khai chống chiến tranh Việt Nam. Mục Sư King bị mắc mưu, tin vào lời than oán xảo trá của tên “Phản Chiến” Nhất Hạnh và đề cử tên Nhất Hạnh vào giải Nobel vào tháng 1, 1967. Nhất Hạnh là một con người  lưu manh, dối trá đội lớp tu hành đã được đề cử giải “Nobel Hòa Bình”, thì chúng ta không lạ gì quan điểm của thế giới phản chiến phương Tây về chiến tranh Việt Nam xiêu vẹo như nhìn thấy chiếc đủa bỏ trong ly nước. Vào giờ cao điểm của chiến tranh Việt Nam . Năm 1968 ngày Tết Mậu Thân toàn dân tề tựu với gia đình cúng bái ông bà, thì PG Ấn Quang tiếp tay với bọn xâm lược Bắc Việt tổng tấn công toàn miền Nam, chúng đi từng nhà bắt từng người đem ra chúng bắn ngay tại chỗ, cũng như giải các nạn nhân đi đến các nơi tập trung và tàn sát tập thể hàng chục ngàn người dân Huế vô tội. Một số không nhỏ đã bị chúng giết và chôn ngay sau sân chùa của chúng. Trong biến cố Tết Mậu Thân và liên tục xảy ra trong những năm kế tiếp, có thể nói rằng khắp thành phố Huế thời đó người dân Huế từ trẻ đến già đầu đều đội khăn tang. 

Chỉ vài tháng sau Tết Mậu Thân, Mục sư King bị ám sát vào ngày 04-04-1968. Giấc mộng đoạt giải “NOBEL Hòa Bình” của tên Nhất Hạnh đã đi theo Mục sư King xuống “suối vàng”. 

Cao Ngọc Phượng tức “Ni Sư” Chân Không là ai?

Bên cạnh thiền sư Nhất Hạnh luôn có một bóng hồng  núp  trong cái áo nâu sòng, gắn bó với Nhất Hạnh như hình với bóng mổi khi xuất hiện trước quần chúng, vậy thì hình bóng đó là ai?

Cao Ngọc Phượng sanh năm 1938 tại tỉnh ở Bến Tre, (nơi mà tên Nhất Hạnh đã láo khoét vu cáo rằng: “Mỹ đã đánh bom giết 300,000 dân làng Bến Tre”. Cao Ngọc Phượng được cha mẹ gởi vào Sài Gòn ăn học và cặp với Nhất Hạnh. Năm 1959. Cao Ngọc Phượng du học tại Paris không để học mà để tham gia phong trào phản chiến như những tên Việt Gian (VG) phản chiến ở Âu Châu khác. Khi trở về miền Nam Việt Nam Cao Ngọc Phượng không đóng góp gì cho đất nước mà tiếp tay với VG Nhất Hạnh sách động biểu tình, gây bạo loạn, gây rối cho miền Nam Việt Nam. Đến năm 1968, sau nhiều lần bạo động phá hoại bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa truy nã, Cao Ngọc Phượng trốn qua Pháp xây “tổ ấm” với VG Thích Nhất Hạnh và xây tiền đồn chống Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại ở Meyrac Loubes Bernac, 47120 Duras phía Nam nước Pháp. Từ đó cả ba tên phản chiến, vong quốc là: Võ Văn Ái - Cao Ngọc Phượng- Nhất Hạnh cùng nhau vận động biểu tình, chống Việt Nam Cộng Hòa, nói xấu Việt Nam Cộng Hòa và ca tụng bọn Cộng Sản Bắc Việt và bọn MTGPMN, chúng công khai ca tụng tên Việt Gian Hồ Chí Minh. Thậm chí chúng cung cấp tài liệu giả cho những tên phản chiến Cộng Sản Âu Châu viết sách tôn vinh tên Việt Gian Hồ Chí Minh, MTGPMN và đoàn quân xâm lược Bắc Việt.

Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh:

Với cái chiêu bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn Ái và khối „thiên tả“ làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của  Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết luận trung thực là dưới chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai nghe tại Việt Nam Cộng Hòa nói lên sự thật trên, đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng  LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được chính thức công bố. Xem:https://thuvienhoasen.org/a17698/ban-phuc-trinh-cua-lien-hiep-quoc-ve-dan-ap-phat-giao-tai-nam-viet-nam-nam-1963

Những người miền nam VN trước 1975 không sao quên: vào ngày 17.10.1970, một “phái đoàn Phật giáo” gồm Thích Nhất Hạnh và những tên cộng sản trá hình khác lên đường sang Tokyo dự hội nghị quốc tế “Tôn giáo và Hòa bình”. Tại đây chúng  trơ trẽn đưa ra cái gọi là “đề nghị 5 điểm”. Cả về hình thức lẫn nội dung, nó chính là “đề nghị 5 điểm” của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam”, cũng tức là của đcsvn. Luận điệu xảo trá của những đòi hỏi này là “đòi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi Việt Nam”, “để dân tộc Việt Nam tự quyết”….Những tên VGCS trá hình này bị các thành viên của hội nghị quốc tế chất vấn bằng những câu hỏi trực diện, là chúng đang đại diện cho ai để đưa ra những đòi hỏi đó? Tại sao chúng chỉ đòi hỏi quân đội Mỹ và đồng minh rút lui, mà không đòi hỏi quân đội Bắc-Việt ngừng ngay lập tức cuộc chiến xâm lăng của chúng chống Việt Nam Cộng Hòa? Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã đồng loạt á khẩu một cách lạ thường vì không thể trả lời những câu hỏi.

Những tên VGCS lưu manh đầu xỏ như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh… đã có thể dễ dàng lừa đảo giắt mũi số “Phật tử” mê muội này, để khiển dụng cho mưu mô thâm độc của chúng. Vì mê muội, nên đã có rất đông những công chức, nhân viên trong tất cả các tầng lớp của bộ máy công quyền Việt Nam Cộng Hòa từ nông thôn tới thành thị, đã bị mắc mưu, tình nguyện hùa theo lũ cộng sản trá hình này làm Việt gian phản tặc, chống lại chính quyền trung ương Việt Nam Cộng Hòa.

    Vào thời điểm này, thanh thế của GHPGVNTN khối Ấn Quang do những tên VGCS trong chiếc áo nâu sòng trá hình đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu đã thao túng và khuynh đảo chính quyền VNCH thời đó. GHPGVNTN về thực chất đã trở thành một lực lượng chính trị có ảnh hưởng đặc biệt nguy hiểm, đáng lo ngại đối với chính quyền trung ương VNCH. Núp trong vỏ bọc Phật giáo, những tên cộng sản trá hình đầu xỏ đã hành xử một cách trân tráo, giật dây chính trường VNCH như thể chúng là những dân biểu thượng nghị sỹ không ngai.

Phần lớn các chùa chiền và các cơ sở tôn giáo đặt dưới sự khiển dụng của GHPGVNTN- Ấn Quang, tất cả đều đã bị lũ cán bộ cộng sản trá hình biến thành những hang ổ của quân đội cs. Có những chùa chiền, người ta tìm thấy dưới đáy các tượng Phật là những hầm bí mật chứa vũ khí chất nổ, phương tiện quân sự dự trữ cho quân đội cs. Kể cả dưới nền chuồng heo cũng là nơi cs đào hầm ẩn náu.. Nhiều chùa biến thành trụ sở dã chiến, cơ sở hội họp, giao liên bí mật, được ngụy trang trá hình bởi các tên cs nằm vùng núp trong lớp áo “tăng sỹ Phật giáo”. Có chùa biến thành những nơi giam giữ và hành hình các quân dân cán chính của chính quyền VNCH.

Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn “cánh tả” của y trong nước cũng như tại Đông và Tây Âu đã xuyên tạc, đánh lạc hướng và bóp méo sự thật một cách có hiệu quả về bản chất của cuộc chiến tranh Việt nam trước công luận thế giới. Chúng cũng đạt được mục đích tạm thời là che đậy và bôi xóa phần nào dãy núi tội ác trùng trùng chất chứa của đảng cộng sản vn trước công luận thế giới. Cũng như vậy, bộ máy truyền thông cộng sản tại phương Tây đã góp phần không nhỏ vào việc bóp méo sự thật và tô vẽ giàn dựng ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh tại Việt Nam là: “do phía Việt Nam Cộng Hòa, quân đội Mỹ và đồng minh khởi sự gây chiến”. 

Thích Nhất Hạnh, VG cộng sản trá hình Phật giáo và đồng bọn đã hô hào xách động giới sinh viên đông và Tây Âu qua chiêu bài „phản chiến“, xuống đường biểu tình bằng những khẩu hiệu xảo trá „phản đối chiến tranh Việt Nam“. Cộng thêm sự tuyên truyền hùng hậu của giới báo chí bất lương, từng được giật dây bởi CIA, dư luận và công luận quốc tế về cuộc chiến tranh của Mỹ tại chiến trường Việt Nam do vậy đã bị bóp méo sai lệch nghiêm trọng, nghiêng hẳn về phía có lợi cho đảng csvn. Cuộc chiến xâm lăng của khối cs và quân đội cộng sản Bắc-Việt đã được bôi trát tô hồng để biến thành cuộc „chiến tranh giải phóng dân tộc“ cùng vô số  những luận điệu xảo ngữ tương tự. Cái gọi là „đại thắng lợi“ của quân đội cs chắc chắn đã phải tiêu tàn phá sản nếu không nhờ những đòn ngón im lặng phản trắc có dụng ý của Mỹ và khối đồng minh.

Nếu Trí Quang và Thích Đôn Hậu là mủi dùi công phá VNCH ở trong quốc nội, thì vai trò của Thích Nhất hạnh là dùng chiếc áo nâu sòng để tuyên truyền bóp méo chính nghĩa của VNCH theo đúng chiến lược ngoại vận của Ban Tuyen Giáo đảng csVN ở hải ngoại, một trong một ngoài để dẫm nát VNCH.

THÍCH NHẤT HẠNH MỘT NHÀ ĐẠO DIỂN LOẠI GIỎI

Quay trở lại với vụ „Tu viện Bát-Nhã“ tại Việt Nam vào năm 2005. Cùng với lực lượng an ninh tôn giáo nhà nước ngụy quyền csvn, Thích Nhất Hạnh và  đồng bọn đã phải gấp rút giàn dựng một vở kịch khả ố vụng về bất cần khán giả. Miễn sao để Thích Nhất Hạnh cùng với đám trí ngủ hậu sinh nhẹ dạ người ngoại quốc đã bị xỏ mũi, có thể xênh xang cùng đảng csvn trình diễn một vở kịch xảo trá: „Tự do tôn giáo ở Việt Nam“, tạo trợ lực đáng kể cho đảng cs vào giờ chót, có thể vượt rào cấm vận gia nhập vào WTO năm 2007. 


Trong vụ „Tu viện Bát Nhã“, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thủ vai „nạn nhân“ của đảng cs vn, khoảng 400 tên cs trá hình Phật giáo được an ninh vgcs „sách nhiễu“ và „trục xuất“ khỏi Việt Nam. Tại nước ngoài, Thích Nhất Hạnh và đcsvn lừa lái, móc nối “xin tỵ nạn“ cho chúng dưới danh nghĩa „tín đồ Phật giáo bị đàn áp“. Để thực thi kế sách, cả bộ máy tuyên truyền văn bút trí nô của đảng csvn trong và ngoài nước đồng loạt lên tiếng, thực hiện đúng chức năng tay sai cò mồi quảng bá cho màn kịch này.  Để cùng một lúc khoảng 400 tên cán cs trá hình Phật giáo được đảng cs và Thích Nhất Hạnh „hợp thức hóa“ tư cách giả „tỵ nạn“ của chúng tại nước ngoài. „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“– („EIAB-GmbH“) trá hình của Thích Nhất Hạnh tại Waldbröl – miền Trung Tây-Đức, là một trong những địa điểm dừng chân ẩn náu đầu tiên của chúng  http://vn-buddhist.blogspot.de/2012/11/thich-nhat-hanh-ten-viet-gian-cong-san_4.html
Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển, Thích Từ Trí, Thích Thiện Sơn... tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“. 

SỰ XUYÊN TẠC XẢO NGÔN CỦA THÍCH NHẤT HẠNH VỀ QL.VNCH

Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài. Thì Thích Nhất Hạnh đã đến New york để thuyết pháp và bộc lộ cái ác tâm của một nhà tu hành khi xuyên tạc về QL.VNCH. Trong tháng 11. 2001 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên.  Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có, thì Thích Nhất Hạnh đã có thừa những thủ đoạn „tịnh khẩu“ rất chuyên nghiệp của một bậc chân tu lâu năm để đối phó. 

Khi nói chuyện trong một Thánh đường tại New York, Nhất Hạnh nêu ra một „sự kiện“ xảy ra ở Bến Tre (VN), y cố tình gán ghép „sự kiện“ đó với cuộc tấn công của quân "khủng bố " Bin Laden để đánh đồng sự việc của quân đội Mỹ trong chiến tranh VN với hành động của quân khủng bố trong ngày 9/11/2001 tại Mỹ khi đánh xập tòa tháp đôi " Thương mại" tại New York. 

Đó là con số „300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được "nghe" thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì 7 du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.“

Cái vọng ngữ của Thích Nhất hạnh là:

Dân số thị xã thành phố Bến Tre đến 1/2016) là 231.904 người, trước 1975 chưa bao giờ quá 100.000 dân. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do Nhất Hạnh cố tình bịp đặt để tuyên truyền có lợi cho cộng sản, một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản VN và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho VGCS Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi của Nhất Hạnh, chính là cái lưởi của một con rắn độc không ngừng phun nọc  vào VNCH.

Muốn biết thật hư thì đồng bào chúng ta đi tìm sự kiện quân Mỹ-Ngụy thả bom tàn sát 300.000 ngàn dân ở thị xã Bết Tre trên các báo chí thế giới và Google coi có ghi nhận sự kiện này hay không để biết cái xảo ngôn của Nhất hạnh?? Nếu có thì Ban Tuyên giáo cs sẽ không bao giờ bỏ qua sụ việc này để có dịp làm nổ tung hành động phi nhân của Mỹ Ngụy trong chiến tranh VN. 

Trong khi dân Mỹ đang bị ám ảnh và lo sợ tột cùng vì hành động khủng bố của quân khủng bố Osama Bin Laden, thì ông Thiền sư Nhất Hạnh không đi qua Afghanistan để "thuyết pháp" cho bọn côn đồ đừng có hủy diệt tượng Phật lâu đời nhất, đừng có tiếp tục giết người vô tội, ngưng ngay những hành động khủng bố.  Ngược lại Thiền sư cố cố tạo ra những con số không đúng sự thật để vu cáo và ghép tội người Mỹ, rồi tạo áp lực tinh thần và nhân tính để bắt buộc người Mỹ nhận thấy rằng chính người Mỹ cũng đã gây khủng bố ở Bến Tre, nhằm để biện giải cho  quân khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn trong cuộc thảm sát ngày 11.9.2001.

Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn Mafia Hà Nội đã vi phạm hiệp định Geneve 1954 và Paris 1973, trong việc chia cắt đất nước và thôn tính miền nam. Ông cũng đã cố tình bỏ quên chiến dịch CCRĐ của HCM và đảng csVN đã giết oan hơn trăm ngàn đồng bào miền bắc, quên đi việc VNCH phải dang tay ra đón nhận hàng triệu người miền Bắc bỏ nơi chông nhau cắt rún để vào miền nam tìm tự do, ông Nhất Hạnh cũng quên cố tình quên đi các cuộc thảm sát đồng bào Huế vào năm 1968 và khắp nơi ở miền nam VN trong ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu thân. Ông này còn quên đi những hệ lụy của quân cướp nước cs Bắc Việt sau ngày 30.4.1975.....Không bao giờ người dân VN nghe ông nói về tội ác của những cộng sản vô thần , vô đạo, phản bội tổ quốc và nhân dân VN. Chân dung đích thật của cái gọi là Thiền sư Nhất Hạnh là thế đó!! ông đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than". Chỉ thấy ông NH đi tìm người cs để hợp tác trên tinh thần hòa giải hòa hợp của Làng Mai với các đỉnh cao Ba Đình.

Nhìn những việc làm và hành động của Thiền sư Nhất hạnh cho thấy ông này vọng ngữ, bóp méo lịch sử, đưa ra những dữ kiện sai lạc nhằm vu cáo quân lực chính nghĩa Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản, trong lúc mà phong trào tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo đang lên cao.
Thiền sư VGCS Thích Nhất hạnh sau thời gian nằm vùng ở hải ngoại để hoàn thành chiến lược ngoại vận cho bọn Ba Đình, nay như loài cá hồi đang đi tìm về nguồn trong mấy ngày qua ở Đà Nẳng và theo như bộ máy tuyên truyền của đảng CSVN thì y đã được đón tiếp rất trọng thi, hàng trăm tờ báo gia nô của đảng đã ra sức tâng bốc y như một. Lúc bệnh nặng ( tai biến mạch máu não ) thì chạy qua Mỹ chữa bệnh , giờ đây săp sửa về chầu Diêm Vương, nên hắn đang ăn năn sám hối để xin Diêm Vương xóa tội theo nghị quyết 36 và tha thứ - đừng bỏ hắn vào vạc dầu sôi.  Thích Nhất Hạnh đang sửa soạn cho cuộc sống về chiều của hắn nên đang kiếm đường về VN sống với CS và tìm nơi ẩn náo cuối đời, nhưng có cái lạ là y không ở chùa mà  ở trong khách sạn 5 sao cao cấp. 



Truyền thông cộng sản trong nước hết lời tung hô hắn.  Và khi về đến phi trường Đà Nẳng được bọn CS tiếp đón trọng thể , coi như để trả công cho một con người đội lốt thiền sư  cống hiến cả một đời làm tay sai đắc lực cho cộng sản. Việt gian Thích Nhất hạnh sẻ không bao giờ về được niết bàn sau khi qua đời, mà hắn chỉ có con đường duy nhất là về với thiên đường của Mác, Mao và HCM nơi cỏi âm ty với 18 tầng địa ngục.

Vũ Thái An 31.8.2017

Phi Vụ Trả Đũa Phan Rang

Tạ Thượng Tứ

Tháng tư đen 1975. Thoáng mà đã gần bốn thập niên trôi qua ! Từ tháng 3 năm 75 , cộng quân mở rộng chiến tranh. Ngày 13 tháng 3 Ban Mê Thuột thất thủ, kéo theo Quảng Trị và Huế mất ngày 26 tháng 3, sau đó Đà nẵng , ngày 29 tháng 3 rồi đến Nha Trang lọt vào tay CS ngày 1 tháng tư. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, tuyến đầu Phan Rang thất thủ, phần lớn phi cơ A-37 đã được bay về đồn trú tại phi trường Tân Sơn Nhất. Các diễn biến ấy như báo trước sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà khi mà người đồng minh lâu đời đã trở mặt quay lưng. . . 

Phi Vụ Trả Đũa Phan Rang
Tạ Thượng Tứ

alt
Buổi chiều ngày 28 tháng 4, như thường lệ sau khi thi hành xong phi vụ hành quân, chúng tôi phóng ra cổng dùng cơm chiều, sau đó trở vào phòng trực hành quân để túc trực đêm. Bốn người chúng tôi: Thi, Chấn, Nhân và tôi đèo nhau trên 2 chiếc xe Lam, vừa vào đến cổng bổng nghe tiếng gầm thét của phản lực cơ đang oanh kích. Một vài cụm khói đen bốc lên từ nơi bến đậu phi cơ vận tải. Chiếc phi cơ A-37 cuối cùng vừa thả bom xong đang vội vả kéo lên và đuổi theo đồng bọn đang lấy hướng Đông Bắc. Tôi nghĩ thầm: “nếu giờ nầy mà các cánh gió siêu thanh phóng lên thì tụi nầy chắc là sẽ nguy to”. . . nhưng chờ đợi mãi vẫn không thấy động tĩnh gì, thế là cả bọn giặc đã thoát nạn.
Chúng tôi phóng nhanh vào phòng hành quân để tìm hiểu xem việc gì đang xảy ra, phi cơ xuất xứ từ đâu? phi đoàn nào? Loại trừ phi cơ thuộc KĐ92CT của chúng tôi, thì chỉ còn có phi đoàn 532 Gấu Đen và các phi đoàn 520 Thần Báo, 526 Quỷ Vương và 546 Thiên Sứ đang trú đóng ở Bình Thủy ( Trà Nóc).
Sau khi liên lạc với Phòng Hành Quân Chiến Cuộc SĐ4KQ thì họ xác định là không có một phi tuần A-37 nào cất cánh. Như vậy thì 5 phi cơ A-37 nầy xuất phát từ đâu? Không thể cất cánh từ Phù Cát hay Đà Nẵng (vì quá xa không đủ nhin liệu để đi và về). Chắc chắn là xuất phát từ phi trường Phan Rang. . . . . . 
(Mãi sau nầy, qua các báo chí thông tin của CS ta được biết 5 phi cơ đó thuộc Phi Đội Quyết Thắng mà biên đội trưởng do tên Nguyễn Văn Lục (bay số 3) chỉ huy toàn bộ, Nguyễn Thành Trung chỉ có nhiệm vụ bay dẫn đường.
- Số 1: Nguyễn Thành Trung
- Sồ 2: Từ Để (con trai của Từ Giấy)
- Số 3: Nguyễn Văn Lục (chỉ huy)
- Số 4: Mai Vượng (chết tháng 7 năm 1975 trong 1 phi vụ huấn luyện) và tr/úy Trần văn Ơn (phi công KQVNCH).
- Số 5: Hán Văn Quảng 
*****
Buổi tối, chúng tôi đang ngồi uống càphê trong phòng trực hành quân thì Đại tá Lê Văn Thảo (KĐT/KĐ92CTKQ) bước vào. Ông gọi:
- Thi, Chấn, Tứ và Liễn vào văn phòng gặp tôi.
Chúng tôi vào văn phòng, Đại tá Thảo trao cho anh Thi bản phi lệnh hành quân và ông nói ngắn gọn:
- 5 phi cơ A-37 oanh kích buổi chiều là xuất phát từ phi trường Phan Rang. Trung tướng Tư Lệnh ra lệnh cho Không Đoàn 92 chúng ta thi hành 1 phi vụ trả đủa đánh vào phi trường Phan Rang đêm nay: phi cơ mang bom nổ sẽ đánh vào bải đậu phi cơ và phi đạo còn phi cơ mang CBU-55 sẽ đánh vào Bộ Chỉ Huy của chúng (nghi ngờ là đang đóng ở 2 “trailers” cuối phi đạo. Phi trường Phan Rang giờ đây là nằm trong tay địch, hoả lực và phòng không của địch ta không rõ, do đó các anh phải rất là cẩn thận và phải thích nghi trong mọi tình huống, chủ yếu là an toàn tối đa.
Khi ông ra khỏi phòng họp, anh Thi bảo:
- Chấn mầy đi lead
- Liễn bay số 2
- Tao bay số 3
- Tứ bay số 4
Sau đó Th/tá Chấn thuyết trình sơ lược phi vụ:
- Danh hiệu phi tuần là Phong Giao, check in và di chuyển tần số 1, cất cánh tần số 2, Paris tần số 3, làm việc tần số 6. Họp đoàn cất cánh từng 2 chiếc, tập họp hướng 060, bình phi 19,500 bộ, họp đoàn hành quân (tactical formation) trực chỉ thành phố Phan Rang, 1 và 3 tắt “beacon” chỉ để đèn wing tip “dim”, 2 và 4 tắt tất cả đèn. Đến Phan Rang, chúng ta sẽ bay dọc theo sông Danh, khi đến mục tiêu, phi tuần sẽ dãn ra ở họp đoàn chiến đấu (combat formation), lần lượt tấn công vào mục tiêu đã định. Giải toả hướng nam, lấy hướng 210 , tập họp cao độ 20,500 trở về căn cứ xuất phát.
Mọi người nhận rõ và lấy dù mũ, sẳn sàng xuất phát.
*****
Chuông điện thoại reo vang. . .
- Alo, th/tá Chấn nghe.
- Thưa Th/tá, tôi là tr/sĩ Cơ, phi đạo A-37, xin báo cáo Th/tá các phi cơ đã trang bị sẳn sàng.
- Cám ơn anh, chúng tôi sẽ ra phi cơ ngay.
Chiếc xe Van đưa chúng tôi ra phi cơ. Bốn phi cơ A-37 đen sì, dưới cánh nặng trĩu bom đạn. Tôi kiểm soát bom đạn dưới cánh, cánh gió, cánh đuôi, xong phóng nhanh vào phòng lái, nai nịt, đội mủ, gắn ống dưởng khí, ra dấu gắn APU (Auxiliary Power Unit) để mở máy. Cơ trưởng gắn APU vào, đẻn phi cụ trong phòng lái sáng rực. Cơ trưởng xoay ngón tay trỏ ra hiệu mở máy, tôi gật đầu hiểu ý. Tôi mở máy trái xong rồi máy phải. Hai máy đã khởi động tốt, tôi ra dấu hiệu rút APU.
Tôi check sơ các phi cụ, mở máy truyền tin lên. Một phút sau nghe trên tần số vô tuyến:
- Phong Giao, thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- 1 nghe 2, 3, 4! 5 trên 5
- Đài Kiểm Soát Tân Sơn Nhất, Phong Giao gọi!
- Tân Sơn Nhất nghe Phong Giao!
- Tân Sơn Nhất, đây Phong Giao xin di chuyển và cất cánh 4 phi cơ A-37! 
- Phong Giao, Tân Sơn Nhất nhận rõ, cho phép di chuyển và cất cánh đường bay 25, gió hướng . . . . mạnh . . . , liên lạc tần số 2 để cất cánh.
- Phong Giao nhận rõ!
Bốn phi cơ A-37 âm thầm di chuyển đến cuối phi đạo, Phong Giao 1 ra lệnh:
- Phong Giao, tần số 2
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- Đài Kiểm Soát, Phong Giao sẳn sàng cất cánh!
- Phong Giao, đây là Đài Kiểm Soát cho phép bạn cất cánh. 
- Phong Giao hiểu!
Phi cơ 1 và 2 so hàng ngang cánh trên phi đạo, số 1 ra dấu cất cánh. Đẩy tay ga lên 95%, số 1 từ từ nhả thắng. Phi cơ lướt nhanh trên phi đạo. Tiếng gầm thét của các động cơ phản lực xé tan sự tĩnh mịch của đêm, ánh lửa phụt ra từ phía sau động cơ làm tăng thêm vẻ uy nghi của 4 con chim sắt khi rời mặt đất.
- Phong Giao 1, 3 và 4 “airborne”
- 1 nhận rõ. Phong Giao qua tần số 3
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao thử vô tuyến
- 2!
- 3!
- 4!
- 1 nghe rõ 2, 3, 4
- Đài Kiểm Báo Paris , phi tuần Phong Giao 4 phi cơ A-37 cất cánh từ Tân Sơn Nhất , phi vụ đặc biệt, xin cho biết thời tiết hướng Đông Bắc khoảng 120 dậm và xin radar theo dõi!
- Phong Giao, Paris hiểu. Thời tiết hướng Đông Bắc tốt, trần mây . . . . , tầm nhìn xa . . . . đã nhìn thấy bạn trên màn ảnh radar và sẽ theo dõi!
- Paris! Phong Giao cám ơn bạn! 
alt

Phi tuần lấy hướng Đông Bắc, lấy thành phố Phan Rang làm chuẩn, sau đó sẽ bay dọc theo sông Danh, hướng Tây Tây Bắc để oanh kích phi trường Phan Rang theo những mục tiêu đã định.
Đã hơn 2 tuần kể từ sau ngày di tản khỏi Phan Rang, giờ đây mỗi người trong chúng tôi không ai tránh khỏi bùi ngùi khi trông thấy lại thành phồ củ, những con đường xưa thân yêu và quen thuộc. Trăng sáng vằng vặc thành phố Phan Rang trước mặt đèn đuốc vẫn sáng choang. Tôi nhìn đồng hồ: 12 giờ 30 phút. Đã sang một ngày mới: ngày 29 tháng 4. . . 
Th/tá Chấn nghiêng cánh trái bay dọc theo sông Danh hướng về phi trường. Năm phút sau, dưới ánh trăng lờ mờ phi trường hiện rõ hai phi đạo song song (phi đạo 04-22), cuối đường bay là bãi đâu phi cơ A-37 (khoảng hơn 10 chiếc). Trong số phi cơ nầy chắc chắn là phải có 5 chiếc ban chiều đã oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất. Trong đầu tôi chợt thoáng lên một niềm thù hận: mình sẽ cố gắng đập nát tất cả các phi cơ nầy.. . . Đang suy nghĩ vẫn vơ chợt nghe văng vẳng mệnh lệnh của Phong Giao 01:
- Phong Giao sang tần số 6.
- 2,3,4 nhận rõ!
- Phong Giao thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao vào đội hình chiến đấu, 1 và 3 đánh vào Bộ Chỉ Huy, 2 đánh vào phi đạo, 4 đánh vào bãi đậu phi cơ,. Tắt đèn khi roll-in. Thả 1 pass interval. Tập họp ở hướng Nam 20,500 bộ.
- 2 hiểu!
- 3 hiểu!
- 4 hiểu!
Tuần tự từng chiếc lao vào mục tiêu. Những đóm lửa loé sáng. . . những tiếng nổ phụ.. . . Tôi lao vào mục tiêu nhấm vào bãi đậu phi cơ, tôi bay xuống thấp. 3000, 2500 rồi 2000 bộ. Tôi bấm nút thả bom. . . Tôi kéo vụt phi cơ lên, quay lại nhìn . . .Bốn quả bôm nổ, phi cơ bị chao động mạnh, có lẽ tôi xuống quá thấp. . .
Phi trường tối đen không một ánh đèn. Chúng tôi không ghi nhận một hoả lực nào từ dưới đất. Có lẽ bè lủ Nguyễn Thành Trung quá vui mừng vì phi vụ thả bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất ban chiều hoặc là vì chúng tôi trả đủa một cách quá bất ngờ nên chúng chưa kịp có phản ứng?. . .
Chỉ với 1 phi tuần 4 phi cơ A-37 với hoả lực quá ít oi, phi vụ trả đũa nầy không làm sao xoay trở tình thế, chỉ muốn cho bọn cộng sản biết rằng các phi công khu trục của VNCH sẳn sàng dập tắt những âm mưu xâm lăng của cộng sản. 
*****
Oanh kích xong chúng tôi lên cao độ 20500 bộ, tập họp lại đổi sang tần số 3, báo cáo phi vụ hoàn tất cho Đài Kiểm Báo Paris rồi lấy hướng 210 trực chỉ Tân Sơn Nhất. . .Mọi người giử im lặng trên tần số.
Chúng tôi hạ cánh lúc 1 giờ 15 rạng ngày 29 tháng 4. Vào đến Phòng Hành Quân chưa kịp uống ly cà phê, đã phải tối tâm mặt mủi khi những quả pháo kích của địch rót xối xả vào những phi cơ A-37 đang đậu trên đường di chuyển (taxi way) (mãi cho đến giờ phút nầy chúng tôi vẫn không hiểu ai đã ra lịnh cho mang phi cơ ra đậu trên đường di chuyển). 
Cộng quân tiếp tục pháo kích cho đến sáng, toàn bộ phi cơ A-37 của KĐ92CT hầu như bị phá hủy hoặc hư hại nặng, không còn có khả năng bay được nữa.
Ngày hôm sau (30 tháng 4), Tân Sơn Nhất vô cùng hỗn loạn, người người xuôi ngược tìm phương tiện thoát thân. May mắn cho thiếu tá Vũ Ngọc Liễn tìm được phi cơ xuống SĐ4KQ và sau đó đã tìm được phương tiện đi Utapao, hiện đang cùng gia đình định cư tại Lake Elsinore (CA).
Riêng cá nhân tôi, Tr/tá Thi và Th/tá Chấn dù có tìm đường lặn lội xuống tới Rạch Giá vẫn không thoát được số “tù”. Rồi cả 3 bị bắt vào trại “cải tạo”. Anh Thi (3 lần vô ra trại tù) tổng cộng 13 năm tù, tôi 10 năm rưởi, Chấn 9 năm. . . Chấn ra tù và vượt biên năm 1984, hiện đang sống cùng gia đình ở Orlando (FL). Tôi vượt biên năm 1986 và đang sống với gia đình tại San José (CA). Anh Thi đi diện HO năm 1992, định cư ở Dallas (Texas). Anh đột ngột mất đi ngày 12 tháng 1 năm 1995 trong nỗi cô đơn nơi xứ người.
Tôi viết lại hồi ký nầy để tưởng nhớ đến anh Nguyễn Văn Thi, một người chỉ huy giỏi, dũng cảm, một người anh và là một người bạn chân thành. Cũng xin gởi đến 2 bạn Chấn và Liễn, những người bạn cùng khóa (63A/SVSQKQ) đã cùng sát cánh bên nhau cho đến ngày tàn cuộc chiến. 
KQ Tạ Thượng Tứ
Tháng Tư Đen 2014
…………………………………………� �……………………………
Ghi chú: Phi tuần Phong Giao
Số 1: Thiếu tá Nguyễn Phấn Chấn, Phi Đoàn Phó PĐ548 Ó Đen
Số 2: Thiếu tá Vũ Ngọc Liễn, Phi Đoàn Phó PĐ 524 Thiên Lôi
Số 3: Trung tá Nguyễn Văn Thi, Phi Đoàn Trưởng PĐ 534 Kim Ngưu
Số 4: Thiếu tá Tạ Thượng Tứ Trưởng Phòng Huấn Luyện KĐ92CT/Phan Rang
 Nguồn: http://thangbagaysung.blogspot.de/2014/04/phi-vu-tra-ua-phan-rang.html
ÔNG TRỊNH VĨNH BÌNH NẮN GÂN 
TẬP ĐOÀN MAFIA CSVN
Tin chưa xác nhận chính thức, nhưng căn cứ hình ảnh ông Trịnh Vĩnh Bình bước ra khỏi tòa án, mặt cười tươi, vui mừng, giơ hai tay như người chiến thắng của ông thì hình như 90% doanh nhân này đã thắng vụ kiện tập đoàn Mafia csVN ra trước Tòa Trọng Tài QT thuộc Phòng Thương Mại QT (International Chamber of Commerce, ICC). Một tòa án do cựu tổng tống Pháp thành lập năm 1923, để xử những vụ vi phạm về vấn đề thương mại xuyên quốc gia. Đây là tin mừmg cho hàng ngũ dân oan trên khắp cả nước từ những năm 1953 cho đến 1975 rồi những năm gần đây. Sự kiện Trịnh Vĩnh Bình thắng tập đoàn Mafia csVN, sẽ kéo theo hàng loạt những sự kiện khác liên quan đến các dân oan khác như trong thời CCRĐ và các vụ ăn cướp trắng trợn của cải vật chất của nhân miền nam sau 1975. Rồi kéo theo các vụ kiện khác từ các người tù cải tạo là Quân, Cán, Chính VNCH....Coi như nhũng hành động phi nhân của một tập đoàn cướp ngày sẽ bị lôi ra trước công lý quốc tế để trả lời những hành động côn đồ và tàn ác trong các vụ cướp của giết người mấy thập niên qua trên 3 miền đất nước. Một vụ án lớn cho phe gọi là "thắng cuộc" rồi đây sẽ bị những người tị nạn cộng sản còn sống và hậu duệ VNCH đưa ra trước tòa án quốc tế, để kiện cs Bắc Việt và tập đoàn Mafia cs VN đã vi phạm các hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 trong tương lai.
Thế kỷ 21, không còn như những thập niên 40-50 của thế kỷ 20, khi cướp của giết hàng trăm ngàn người xong rồi chỉ cần rớt vài giọt nước mắt trước các ống kính của đảng csVN, là được xóa hết tội như hình ảnh của hồ chí minh vào năm 1956. Người dân cả nước không quên được việc csVN giết người vô tội trong chiến dịch CCRĐ từ những năm 1953-1956, một chiến dịch long trời lở đất tắm máu khắp nơi, đã xử tử hình 172.008 người và 500.000 người chết trong chốn lao tù. Trong 172.008 người bị hành quyết thì có đến 123.266 người bị oan (72%). Những oan hồn trong cuộc CCRĐ tới nay vẩn chưa được giải oan. Trong chế độ cộng sản số người chết oan ngày càng chồng chất và tỉ lệ thuận với thời gian. Miền bắc tang thương rồi tới miền nam năm 1968 trong dịp Tết Mậu Thân, csVN đã đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Số thiệt hại về nhân mạng về phía VNCH: 4,954 sĩ quan và binh sĩ, 14,300 thường dân. (Trong số thường dân nầy, Huế mất khoảng trên 2,000 người.). Phía Cộng sản 58,373 sĩ quan và binh sĩ chết và tử thương.
Sau vụ Mậu thân 1968 đến vụ xé hiệp định Paris 1973 thôn tính miền nam vào tháng 4/1975. Sau khi chiếm được miền nam đám Mafia csVN đã mở chiến dịch đánh tư sản để cướp sạnh đất đai tài sản nhân dân miền nam. Chúng cưởng bức 600.000 ngàn người Sài Gòn lên vùng Kinh Tế Mới sau khi bị Mafia csVN cướp hết tài sản. Tổng kết sau cùng trong đợt X3 ,theo ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KTM, trong dự tính của đảng là sẽ đưa một triệu hai người ra khỏi Sài Gòn! (Dân số SG lúc đó 1, 7 triệu người). Sức mạnh kinh tế Sài Gòn bị csVN phá hoại đi đến kiết quệ hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy. Hơn 14.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước mắt lên đế gần 21 tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn không hy vọng để phục hồi. Chúng còn phải trả lời về việc bắt nhốt gần một triệu quân cán chính VNCH trong tù cải tạo không được xét xử một cách vô lý trong nhiều năm để trù dập và trả thù.
Riêng về con số 4000 lượng vàng của người Sài Gòn mà Mafia csVN cướp sau 1975, rồi đây sẽ phải ói ra, đó chỉ là số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm 1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Con số trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, nữ trang và kim cương thu trong những đợt đánh tư sản ở miền Nam cũng phải ói ra, nếu như nhân dân miền nam đồng loạt kiện tập đoàn Mafia csVN ra trước Tòa Án QT. Nếu tính luôn số vàng trong chiến dịch tống người Hoa ra khỏi VN trong cuộc vượt biển bán chính thức là 120.000 lượng vàng thu được, thì con số vàng mà Mafia csVN đã cướp được của miền nam gần 200.000 lượng trong việc đánh tư sản qua chiến dịch X1, X2 và X3, do Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam - Bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn.

Người ta thường nói: "Tham thì thâm" tham lam thì gặp tai vạ sâu, tham lam sẽ gặp đen đủi, rủi ro, tai họa. Những người nào có máu tham, ham muốn một cách thái quá, không biết chán, chẳng hạn như tham ăn, tham của, lòng tham không đáy, máu tham hễ thấy vàng và đô la thì mê...Ai mà chẳng ghét những kẻ tham lam! Người ta có câu: "Tham ăn giữ nết, chết không ai thương" nếu hiểu theo nghĩa rộng là một thói hư tật xấu, cứ giữ cái thói này thì lúc gặp khó khăn, hoạn nạn chẳng có ai thương xót. Thế nên khi thấy vụ kiện của doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình thắng tập đoàn Mafia csVN trong vụ kiện 1, 25 tỷ Mỹ Kim tại Paris đã làm hàng ngũ người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới rất phấn khởi trong tương lai khi đưa bọn csVN ra trước tòa án QT để đòi lại những tài sản đã bị cướp sau năm 1975..
Người xưa có câu "Tham quan ô lại" là để chỉ bọn quan lại tham nhũng vơ vét, đục khoét của dân. Tham nhũng là để chỉ những kẻ lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và cướp lấy của người dân thấp cổ bé miệng. Tham ô là chỉ những kẻ lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công, cướp đất, cướp nhà dân.
Nhà nào giàu bằng nhà cán bộ
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi 
(ca dao)
Hay:
Dân đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp độn sắn biết ngày nào thôi

Mấy câu ca dao thời XHCN là đã nói lên bối cảnh của xã hội ngày hôm nay trên đất nước VN. Ngày nay, đâu đâu cũng thấy tình trạng tham nhũng do tập đoàn csVN đang lầm lũi bước theo hướng của tư tưởng vô đạo của HCM. CSVN chính là những kẻ cố bám giữ quyền hành, địa vị nhằm trục lợi cá nhân hơn 42 năm sau ngày chiếm được miền nam.
Qua vụ Trịnh Vĩnh Bình cho thấy hể "tham thì thâm", và csVN đi đêm thì có ngày phải gặp ma, đâu đó cũng là bài học đích đáng cho đám Mafia cướp ngày lộng hành hơn 7 thập niên qua trên quê hương VN. Ngày phán xét sẽ đến, chờ đấy đám bán nước hại dân csVN!!

Lê Kim Anh 28/8/2017
NƯỚC MẮT MẸ VẨN RƠI TRONG MÙA VU LAN
Lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch) là dịp để báo hiếu cha mẹ, để tìm về nguồn cội yêu thương, như truyền thống lâu đời của người Việt vốn trọng những tấm lòng thảo thơm như thế. Nên tháng 7 âm lịch hàng năm thường được người Việt coi là mùa báo hiếu hay còn gọi là mùa vu lan, tổ tiên của Việt tộc dùng tháng bảy như  để đề cao chử hiếu trong truyền thống Việt đạo, nhắc nhở những người con đừng quên đi trách nhiệm của mình đối với đấng sinh thành. Con người và thú vật khác nhau ở điểm là con người có trí huệ, biết hiếu thảo, biết giữ tục lệ nề nếp, biết quý trọng lễ, nghĩa. Không hiểu nét văn hóa đậm chất nhân văn về tính hiếu thảo với cha mẹ, không hết lòng trung thành với tổ quốc, không biết những điều kiện căn bản làm người, thì những đứa con của mẹ không khác gì với loài súc vật đang sinh hoạt quanh ta.

Hiếu thảo đối với cha mẹ là một trong những chuẩn mực đạo đức căn bản của con người. Phụng dưỡng mẹ cha là lẽ đương nhiên, bạn không cần phải hỏi tại sao hay đặt điều kiện gì cả. Bởi công ơn của cha mẹ đối với con cái quá bao la và sâu nặng, không thể nào tính kể cho hết được. 
Thực ra, món quà hiếu thảo lớn nhất để dâng lên cha mẹ chính là người con biết tạo dựng một nếp sống có đạo đức, có văn hóa; biết kính trên nhường dưới, sống hòa thuận với mọi người chung quanh và thân tâm được an lành mạnh khỏe, chứ không hẳn chỉ đem của ngon vật lạ dâng hiến cho mẹ cha, bởi khi thấy con cái của mình an ổn vui vẻ thì mẹ cha mới thực sự yên lòng.

Vâng! M là hình ảnh của mang nặng đẻ đau, nhai cơm, nhường nơi khô nằm nơi ướt, con đau là mẹ đứng ngồi không yên,v.v… khi con còn bé bỏng; thế rồi để con lớn khôn và vững bước vào đời, mẹ lại làm thân cò lặn lội, bươn chải, vất vả nuôi con.
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên,
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con;
Dẫu cho thân xác héo mòn,
Miễn sao con được đủ đầy ấm no.” (Ca dao)
Dù cho vất vả, cơ cực trăm bề, mẹ không hề than van! Hình ảnh người mẹ tảo tần sớm hôm dưới mưa gió trên đồng ruộng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời; lam lũ, vất vả giữa chợ đời, gánh hàng rong trĩu nặng trên đôi vai gầy dạo khắp cùng đường cuối hẻm mong kiếm đồng lời để nuôi con ăn học thành tài cho khỏi thua sút với đời. Hởi những ai đang còn có mẹ:  bạn có cảm nhận được hết tất cả những gì cao quí nhất của mẹ mình hay không?
Trong không khí của mùa vu lan năm nay chúng tôi không quên nhắc đến những người mẹ đau khổ hơn 70 năm qua vì đàn con hoang của mình. Những người mẹ từng cưu mang những đứa con hoang bất hiếu, đã bị tên nghịch tặc hồ chí minh dạy hư bằng những  chủ nghĩa cặn bã của thế giới rồi làm khổ đất nước và dân tộc VN. Những đứa con hoang không biết thế nào là chử hiếu trong Việt đạo, chúng chỉ biết chăm lo sự sống còn của đảng, chỉ biết trung và hiếu với ngoai bang, với thiên triều, bỏ mặc sự sống còn của mẹ VN. Đàn con hư này chỉ biết hèn với giặc ác với dân ngoảnh mặt với tổ quốc và dân tộc. Một số khác thì đang đưa đất nước lầm lủi theo con đường phá sản và hội nhập vào nước lớn anh em Đại Hán vào năm 2020 theo đúng hiệp ước Thành Đô 1990 .


Những đứa con hoang bám đít Tàu Cộng, lừa bịp đồng bào miền Bắc bằng mỹ từ "giải phóng miền nam" phát động cuộc chiến xâm lược miền nam, do Hồ chí Minh và đảng csVN chủ xướng, đã làm khoảng 5 triệu đứa con của mẹ đã nằm xuống đâu đó trên mảnh đất hình cong chử S, trong đó gần ba triệu người cầm súng của cả hai miền nam bắc đã hy sinh và mất tích. Không có nơi nào trên thế giới mà lòng mẹ luôn quặn lòng về đàn con bất hiếu (csVN) của mình như những bà mẹ VN -  đã vô phúc cưu mang những đứa con phản phúc, những đứa phản bội lại dân tộc từng lừa bịp đồng bào cả nước bằng  chiêu bài chống Mỹ cứu nước giải phóng miền nam.
VNDCCH và CHXHCNVN trước thập niên 80 (t.k 20) làm gì biết đến ngày lễ mẹ, biết đến mùa báo hiếu để vinh danh người mẹ, mặc dù đảng đã cho thành lập hàng trăm hội Phụ nữ, nhưng chỉ để ca tụng bác và đảng, đôn đốc phụ nữ tham gia các nghị quyết của đảng. Truyền thống của đám con hoang  toàn là một thứ vô gia đình , vô tổ quốc và vô thần... Riêng tại miền nam VN trong chế độ cộng hoà, ngày mẹ thường được được người Phật tử tôn vinh trong ngày lễ Vu Lan hàng năm-tức ngày rằm tháng 7.  Chúng con những người con của mẹ VN thành tâm nguyện cầu:

Nguyện cầu Quốc Mẩu Âu Cơ
Sáng soi dân tộc con đường đấu tranh
Sao cho chí toại công thành
Việt Nam dân chủ, thái bình, ấm no

Nguyễn Thị Hồng 26.8.2017