TÌNH TRẠNG THIẾU THỐN VŨ KHÍ CỦA VNCH
TỪ SAU HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
Một trong những nguyên nhân chính yếu làm người chiến sĩ VNCH phải ngậm ngùi trong uất hận chia tay đồng đội để rồi tan hàng trong ngày 30.4.1975, đó là sự thiếu thốn trầm trọng về đạn dược sau khi bị cắt quân viên từ sau hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Khi một quân đội kiêu hùng bách thắng
Buông súng bể nòng hết đạn cạn lương
Bao nhiêu tướng sĩ can trường tuẫn tiết
Mắt trợn trừng nhìn đất nước tang thương.
Khi một Sài Gòn phồn vinh nhân bản
Rực rở rạng ngời hòn ngọc Viễn Đông
Cay đắng uất hờn mang tên nghiệt súc
Bẽ bàng trôi theo số phận non sông
Theo Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng cục Phó Tổng cục Tiếp vận đã ghi lại tình trạng quân trang quân dụng của VNCH như sau:
‘Sau Hiệp định Paris, chúng tôi biết là viện trợ và tiếp liệu sẽ bị cắt giảm, Năm đầu tiên, tiền viện trợ còn 1.4 tỷ USD, nhưng qua năm thứ 2, chỉ còn phân nửa, Do đó tại Tổng Cục Tiếp Vận (TCTV), chúng tôi đã đưa ra khuyến cáo yêu cầu mọi ngành tiết kiệm, tìm cách để mọi người sử dụng kỹ hơn những gì đang có. Chúng tôi chú trọng nhất đến đạn vì đạn chiếm 70-80 % ngân sách được cấp.
’Đạn càng ngày càng thiếu. Bắt đầu từ 1974, chiến sự gia tăng, những cuộc đụng độ xẩy ra thường xuyên hơn, nhất là tại Khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhu cầu đạn tăng thêm. Các tiền đồn khi bị tấn công rất cần sự yểm trợ của Pháo binh.
‘Vấn đề thiếu thốn thứ nhì, sau đạn, là nhiên liệu: Nhiên liệu cho trực thăng, phi cơ chiến đấu, chiến hạm, chiến đỉnh và xe vận tải..Thời gian hoạt động của các phương tiện này bị cắt giảm bớt phân nửa. Sự kiện này không xẩy ra ngay khi HK rút quân, nhưng suy giảm từ từ , xuống còn ..phân nửa vào năm 1974.
Để tiết kiệm đạn, trong tài khóa 1974, chúng tôi (TCTV) cắt giảm đủ mọi loại đạn, ngoại trừ đạn nổ sát thương HE, bỏ hỏa châu, đạn đại bác soi sáng..không còn tiền để mua hỏa châu cầm tay.. Thiếu nòng đại bác để thay thế hư hỏng, thiếu cơ phận cho Thiết vận xa M-113, thiếu nòng súng cá nhân M-16 để thay thế.
Để chống chiến xa CSBV chúng tôi phải đem bazooka 3.5 (loại súng của thời Thế chiến 2), ra dùng lại vì M-72 trở thành khan hiếm..’ Những người lính ra trận thường được cấp một cấp số đạn là 400 viên M.16, nay do thiếu đạn nên cấp số chỉ cón/2 là 200 viên. Cho đến đầu năm 1975, một binh sĩ Nam Việt Nam chỉ còn được phát có 60 viên đạn cho một tuần. Xin lập lại 60 viên M16 trong một tuần. Đạn trọng pháo bị cắt 90%, xe tăng và phi cơ bị cho nằm ụ vì thiếu cơ phận thay thế (chúng trở thành những bức tượng điêu khắc bất động).
TÌNH TRẠNG VỀ CHIẾN XA:
'.. Chúng tôi (Lục quân Công xưởng) không có khả năng tu bổ hay tái tạo lại các xe M-113 và xe tăng M-48 bị hư hỏng khi chiến đấu, Chúng tôi phải gừi các xe này về HK để tân trang. Nhưng Cơ xuởng sửa chữa HK đòi hỏi phải có BIIL (Basic Issues Items Lists=Danh sách các cơ phận chính yếu) đính kèm: Yêu cầu này có nghĩa là khi gửi ‘chiến xa hư hỏng’ đi chữa, phải gửi kèm theo tất cả các cơ phận phụ như thiết bị vô tuyến, giá gắn súng..Chúng tôi cố gắng đáp ứng yêu cầu BIILs, nhưng nhiều khi các thiết bị này đã bị phá hủy khi đụng trận.. Khi tân trang xong, Cơ xuởng HK thường ..quên gửi trả lại BIILs và chúng tôi nhận lại xe tăng, không có trang bị vô tuyến! Chưa kể mất rất nhiều thời gian (có khi hàng 2, 3 tháng) để gửi chiến cụ hư hỏng sang HK đến khi được nhận lại !..
TÌNH TRẠNG PHÁO BINH:
Pháo binh (PB) được xem là một lực lượng quan trọng của QL VNCH trong việc yểm trợ chiến trường. Vai trò của Pháo binh còn tối cần thiết hơn khi Không quân trở thành kém hữu hiệu.
Trước khi Hiệp định Paris ra đời thì PB QL VNCH đã luôn túc trực để yễm trợ tối đa theo nhu cầu. Tình trạng đạn tồn trữ giảm xuống nhanh chóng sau khi ký HĐ Paris và lệnh tiết kiệm được ban hành và áp dụng: Trên thực tế, tình trạng cấp số đã được định, TT Thiệu tuy ‘bực bội’ và trong các buổi họp tham mưu, đòi hỏi là nơi chiến trường quân đội phải được tiếp tế đạn theo nhu cầu, nhưng không thể thực hiện được vì không đũ đạn dược. Một Tư lệnh cho biết:‘ Năm 1972, chúng tôi (PB) được bắn..thoải mái, vô giới hạn, chỉ cần giữ nhịp bắn để đừng làm hư hại nòng pháo; đến 1975 mức độ tiếp liệu trung bình chỉ còn khoảng 10 % con số của 1972 ’
Trong tập sách của Đại Tuớng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu truởng của QLVH đã ghi (trang 86-94) khá nhiều chi tiết về tình trạng khó khăn về tiếp liệu của QL VNCH:
‘Vào cuối năm 1974, tổng số nhu cầu cần được thay thế lên đến 400 triệu mỹ kim. Những quân dụng cần thiết nhất như là vũ khí và đạn thì chỉ được thay thế khoảng 70 %. Một vài chương trình thay đổi quân dụng bị đình chỉ vì thiếu ngân quỹ..’
'Chỉ có 33 % (tương đương 24 triệu mỹ kim ) tổng số quân cụ/vũ khí cần thiết được thay thế. Thiếu phụ tùng thay thế càng tạo thêm trở ngại cho vấn đề bảo trì. Nhiều quân cụ/vũ khí tại các đơn vị tác chiến phải chờ từ 30 đến 45 ngày để được thay thế, sửa chữa’
Tướng Viên đưa ra một bảng nhu cầu thay thế khá chi tiết về các chiến cụ bao gồm xe tăng, đại bác, quân xa.. Mà phần trăm cần thay thế lên đến từ 60 (cho đại bác 175) đến 95% (cho đại bác 155ly) chưa kể hơn 4000 quân xa..nằm ụ.
Quan trọng nhất là số lượng đạn tồn kho (tháng 2 năm 1975), giảm đến mức nguy hiểm: so với mức dự trữ căn bản là 60 ngày chỉ còn cung ứng được 30-40 ngày!
Đạn Số ngày tồn kho
Đạn M-16 : 31
Phóng lựu 40 ly: 29
Súng cối 60: 27
Súng cối 81: 30
Đại bac 105: 34
Đại bac 155: 31
Lựu đạn: 25
Với thời gian là 45 ngày từ lúc đặt hàng và chuyên chở tới VN bằng tàu, thì thờì gian..quá lâu cho trường hợp khẩn cấp.. Sau tháng 3-1975, với tất cả các đơn vị di tản từ Vùng I và II về, tình trạng đạn tồn kho trở nên tuyệt vọng. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở 4 kho đạn dự trữ tuột xuống chỉ còn đủ dùng trong 14 đến 20 ngày.
Tuớng Phillip Davidson (cựu Truởng Ban Tình báo MAC-V) mô tả về việc cắt giảm viện trợ một cách bi đát hơn:
‘Từ 1974, QL VNCH đã phải đánh trận với phương tiện rất thiếu thốn. Tất cả mọi chương trình huấn luyện đều thu hẹp. Khả năng di động do phi cơ vận tải và trực thăng giảm hơn 50%. Thiếu cơ phận thay thế làm đủ mọi loại phi cơ, tàu thuyền, xe cộ phải ngưng hoạt động: cách giải quyết bằng tháo gỡ từ phương tiện này đễ tạm lắp vào phương tiện khác..chỉ làm hư hao và hủy hoại thêm quân cụ.. Thiếu thốn đạn đưa đến thêm những tổn thất nhân sự nơi chiến trường và người bị ảnh hưởng nhất là những thương binh: việc di tản cấp cứu bị chậm trễ, và nhiều khi phải dùng..xe Honda, thuyền chèo hay 4, 5 xe cứu thương, hết xăng, được kéo bằng một xe vận tải. Thương binh được đưa đến quân y viện nơi đang thiếu thuốc men, băng, dịch truyền và các phương tiện cấp cứu khác..’ ( VietNam at War, trang 671-675)
Một bản báo cáo ‘mật’ với tựa đề ‘ Tình trạng đạn của Nam Việt Nam’ gửi cho Ủy Ban Quốc Hội Mỹ trong cuộc viếng thăm VN vào tháng 2,1975, ghi:
'Việt Nam tiêu thụ 131 ngàn tấn đạn trong khoảng thời gian từ 1 tháng 7, 1974 đến 31 tháng Giêng 1975, trung bình mỗi tháng khoảng 18 ngàn 700 tấn, con số tương tự như trong thời gian cuối 1973 nhưng cao hơn thời gian Tháng 4-Tháng 9, 1973.’
Về số luợng đạn đại bác bắn mỗi tuần cũng được đưa ra với nhiều chi tiết:
‘Trong năm 1973, VNCH bắn đi 39 ngàn quả mỗi tuần (trong các tháng 4 và 5) , Tăng lên đến 63 ngàn mỗi tuần (trong các tháng 11 và 12. Năm 1974 PB VNCH bắn 76 ngàn quả/ tuần (trong các tháng 5 và 6) giảm xuống còn 63 ngàn/ tuần (trong các tháng 9, 10 và 11).
Tổng số lượng đạn cần thiết để đủ dùng trong 2 tháng được ghi là 126 ngàn tấn; Với sự cắt giảm ngân sách từ Quốc hội HK: lượng đạn bị cắt 30 % và số đạn ở mức ’an toàn’ sẽ hết vào giữa năm 1975 (Defense Department Fact sheet:”GVN Ground Ammunition Situation” to Rep. Fenwich)
Trước những thiệt hại của QL VNCH trong khi chống trả lại các cuộc tấn công của CSBV, và để tìm hiểu tình hình thực tế tại VN, Ngày 25 tháng 3, 1975 ,TT Ford đã gửi một phái đoàn đặc biệt do Tuớng Frederic Weygand hướng dẫn đến VN. Phái đoàn của Tướng Weygand đã đưa ra những nhu cầu tối thiểu và khẩn cấp của VNCH để có thể tồn tại: ‘744 đại bác, 446 tank và thiết vận xa, trên 100 ngàn súng trường, trên 5000 súng máy, 11 ngàn súng phóng lựu, khoảng 120 ngàn tấn bom/đạn, cùng khoảng 12 ngàn xe vận tải’ (Without Honor: Defeat on Vietnam and Cambodia của Arnold Isaacs trang 146). Bản báo cáo này không được Quốc Hội HK quan tâm vì lý do đơn giản: ‘No more VietNam’.
Vì Quốc Hội Hoa Kỳ đã bác bỏ đề nghị của Tướng Weygand, nên số phận của VNCH theo đó mà đi vào lịch sử. Người viết xin mượn vần thơ " Tháng tư nhìn lại" của thi sĩ Phan Huy để ngậm ngùi thay lời kết cho bài viết này:
Tháng Tư năm xưa Cờ Vàng đổ xuống
Trút lên hồn tổ quốc nỗi buồn đau
Ba sọc đỏ tuông trào theo trùng sóng
Tức tưởi nghẹn ngào biển rộng rừng sâu.
Ôi chính nghĩa giống nòi cam thất bại!
Bút mực nào tả hết nỗi hờn oan
Khi lá cờ ma Cộng tà sao máu
Trùm ách búa liềm khắp cả giang san.
( Phan Huy)
Trong mùa quốc nạn năm nay , chúng tôi những hậu duệ VNCH không quên thắp nén tâm hưong dâng lên các chiến sĩ đã nằm xuống cho sự tự do và hạnh phúc của người dân phương nam.
Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Khí Hùng Bất Tử Rạng Ngời Núi Sông
Hồn Thiêng Sông Núi Anh Linh
Tổ Quốc Tri Ân Đến Mãi Muôn Đời!!!
(Hau ong)
Tháng Tư mình mất cuộc đời
Ngày buông tay súng chơi vơi hận cuồng
Trời quê hương chợt nhuốm buồn
Một đời chinh chiến hào truông biên thùy
(Khiếu Như Long)
TỔ QUỐC VINH DANH
Anh hùng bảo quốc lưu thiên cổ
Bảo vệ Miền Nam chống ngoại xâm
Bắc Việt chư hầu quốc tế cộng
Theo Tàu bán nước tội ngàn năm .
(Thanh Thiên Hồng Lĩnh)
Buồn ....
Nhưng rất kiêu hùng ,
vì Quân Đội không khuất phục bạo cường
mà ngược lại ,
Đã bao phen làm cho lũ giặc thất kinh
Chúng chui rúc như lũ chuột
Chúng tan xác mỗi khi đụng trận
Dù đôi khi quân số chúng gấp bội
Các Chiến Binh QLVNCH vẫn hiên ngang
Xoá sạch chiến trường
Xác quân thù nặng mùi thuốc súng...
( An Lộc ,Trị Thiên, Xuân Lộc Đồng Xoài )
Nhưng than ôi !
Giữa đường hành quân
Súng trận gãy ngang
Quân Tướng tan hàng
Không nơi nương tựa...
Ta không thua quân giặc
Không yếu lòng ,yếm thế
Chỉ vì đòn chính trị
Mà "tuẩn tiết" đau thương...
Sử thi còn ghi nhận
Một quân đội kiêu hùng
Đánh tan bao phiên giặc
Nhưng tan hàng ....đau thương .
(Quốc hận 43-Nguyen van Duoc)
Biên khảo Nguyễn Thị Hồng 21.3.2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét