NÓI VỚI "NẤM" VỀ CÁCH TRẢ ƠN 
CỦA NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT 
Người Mỹ gốc Việt ngày nay đã trải qua một thời gian nửa thế kỷ sống xa quê hương vì nạn cộng sản. Lớp trẻ sinh trong khoảng thời gian trước và sau tháng tư đen 1975, nay đã lớn và thành danh, đang đóng góp vào việc xây dựng quê hương thú hai đã cưu mang gia đình mình thoát được cái hoạ cộng sản.

Tính đến cuối năm 1995,  tổng số người Việt bỏ nước ra đi, theo thống kê của UNHCR là 989,100 người, cả đường biển lẫn đường bộ. Số người tử nạn trên đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Số người Việt sinh sống đến nay trên thế giới có gần 5 triệu người, riêng tại Hoa Kỳ con số người Mỹ gốc Việt được ước tính hơn 2.200.000 trong năm 2017.

Đa số những người thuộc thành phần tị nạn sau 1975 đều là người miền nam. Họ từng được sống trong một nền giáo dục nhân bản của VNCH,  họ là những người có nếp sống theo truyền thống Việt đạo, biết tôn trọng người lớn, yêu thương kẻ nhỏ, luôn giử gìn tôn ti trật tự trong gia đình cũng như biết yêu thương cái xã hội mà mình đang sống. Họ là những người biết tôn kính lời dặn dò của ông cha đã từng dận dò hàng ngày trong cuộc sống: "Đừng có lối sống đi ngoài truyền thống của Việt đạo".
Với người tị nạn VN đã đến đất Mỹ đến đất Mỹ sau tháng tư 1975 và nhận nơi đây làm quê hương tạm dung, họ đều biết ơn nước Mỹ đã cưu mang họ trong lúc quốc gia mình bị nạn cộng sản. Điều này khó tìm thấy nơi những người đã hấp thụ nền giáo dục cộng sản sau 1975.

Biết ơn luôn là thái độ sống cần phải biết nâng niu và trân trọng. Nhận thức được điều này, con người sẽ hội nhập nhanh chóng với môi trường mới và sẽ không ngần ngại bắt tay một cách hăng sai vào việc xây dựng xã hội mới đang cưu mang mình bằng cả tâm và sức. Thế nên sau 45 năm sống tạm dung trên đất Mỹ, họ đã thành công và hãnh diện là người Mỹ gốc Việt, họ đã ra sức làm việc để trả ơn nước Mỹ.  Một nơi mà họ không cần biết là nó vĩ đại hay không vĩ đại, nhưng có một điều mà họ chắc chắn sẽ nhận ra được:" họ đang có được đầy đũ các quyền tự do nhất" của một con người và các quyền lợi đó sẽ được bảo v chặt chẽ nhất, các nước khác khó có thể cung cấp được cho họ. Đó là những thứ mà người dân nước CHXHCNVN không bao giờ ặó được. Nước Mỹ không vĩ đại, nhưng hầu hết các quốc gia trên thế đều muốn đăt liên hệ ngoại giao và đặt đại sứ tại nước này. Đồng  US Đô la có giá trị nhất thề giới - một trong những đồng tiền mà nơi đâu cũng có thể xử dụng được. Một trong những đồng tiền mà CHXHCNVN trông đứng trông ngồi, thiếu nó đảng như con chó cusmv, chạy đầu này đầu nọ để xin ăn...cũng vì sức mạnh của đồng đô la nên đảng cũng phải trở giọng từ phản động thành khúc ruột ngàn dậm. Và đảng củng từng khát khao đồng đô la của Mỹ, như sau:

Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô thì được, đa nguyên thì đừng

Những người tị nạn trên đất Mỹ ho biết nước mỹ chưa chắc gì là nước vĩ đại, nhưng ít ra Mỹ có thể giử gìn được trật tự và bảo đảm được nền an ninh của thế giới, trong một giới hạn nào đó mà các nước khác khó có thể làm được như Mỹ. Tiếng nói của các vị tổng thống Mỹ đều được hầu hết các quốc gia tôn trọng.

Nước Mỹ không xấu xa cũng như kỳ thị với những người từng bị cộng sản VN ngược đãi trong quá khứ, như tù nhân lương tâm, những đảng viên cộng sản  (bị chế độ trù dập), luôn cả những cán bộ cs nằm vùng, những nhà đấu tranh dân chủ cuội như: Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, gần đây nhất là bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, có cái xú danh "Nấm Độc" v.v... 

Nước Mỹ không kỳ thị lý lịch, sẳn sàng đón  16.579 con cháu bác "hù" là sinh viên sang du học tại Mỹ (năm 2014). Thế mới biết, nước Mỹ  không hẹp hòi như cái xã hội đã từng cưu mang "Nấm" trước khi " Nấm "đến tá túc tại Mỹ.

Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ chẳng ai bằng mình

Người Việt nạn cộng sản được nước Mỹ cưu mang, họ phải vượt biển, hoặc bằng đường bộ, khó khăn muôn trùng mới đến được bến bờ tự do, không như "Nấm Độc" và các nhà dân chủ chủ cuội khác, đi bằng máy bay đến Mỹ một cách bình an và hạnh phúc. Nấm chưa từng nếm mùi khó khăn trên con đường đi tìm tự do. Nên cái ơn của nước Mỹ, không đeo nặng trên vai "Nấm". Cũng không nên trách "Nâm", vì Nấm đâu có được đào tạo trong một môi  trường giáo dục Nhân Bản, Dân Tộc như con cháu VNCH. "Nấm" ch thấm nhuần một nền văn hoá vô đạo, thiếu tình người, sản sàng phủi ơn tất cả những ai đã từng giúp mình trong cơn hoạn nạn. Thái độ của "Nấm", không khác mấy với hồ chí minh, khi đấu tố người ơn của đảng. Bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hạnh Long từng đóng góp vàng, cưu mang, đùm bọc đám chóp bu ăn hại trong Bộ Chính trị đầu tiên. Sau khi cách mạng thành công, năm 1953, đảng đã đem bà ra kết tội rồi xử bắn đầu tiên. Lịch sử còn ghi đậm tên Nguyễn Thị Năm, trong chiến dịch CCRD, đảng đã đem bà ra đấu tố và trả ơn bằng một phát súng . Nay di sản của họ "Hồ" là Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã học cái đạo đức của "hồ" và đảng csVN để đối xử với nước Mỹ.


"Nấm" từ nhỏ tới lớn chỉ biết lặn ngụp trong một nền giáo dục phi nhân, nền giáo dục mà con có thể đem cha mẹ ra đấu tố, một nền văn hoá lấy máu tanh viết lịch sử, lấy máu tanh để phát triển đảng.

Hoàn cảnh "Nấm" hoàn toàn toàn khác với người Việt tạm dung trên đát Mỹ. Họ đến Mỹ không dể dàng, sau đó phải bắt đầu sự sống bằng con số không. Họ không có tiền cho đi học trường tư như "Nấm". Cuộc sống ban đầu ở Mỹ của người Việt tị nạn vốn không hề dễ dàng như nhiều người lầm tưởng. Tại đây, họ phải bắt đầu với những công việc làm thêm có mức lương tối thiểu trong các xưởng sản xuất, nhà hàng… Thu nhập bình quân của người Việt có mức lương thấp ở Mỹ vào khoảng 20.000USD đến 40.000USD một năm. Còn mức lương cao thì còn tuỳ thuộc vào các ngành chuyên môn và khả năng của mổi người. Theo thống kê thu nhập bình quân đầu người năm 2018 ở Mỹ vào khoảng 62.518 USD ( xếp hạng 7). 
Đi lên từ số không và phải trải qua bao nhiêu là mồ hôi nước mắt, thế hệ chúng tôi đã lớn lên trong cái ơn đó của nước Mỹ ban cho, nên chúng tôi, thế hệ một rưởi và thứ hai của VNCH đã rất quí trọng đất nwuowsc đang cưu mang gia đình chúng tôi, do đó chúng tôi đã cos gắng học hành thành tài, để góp bàn tay giúp nước Mỹ như bao công dân khác. Trong chúng tôi giờ đây đã có rất nhiều đã thành danh và đang trả ơn nước Mỹ, bằng những hành động cụ thẻ như tham gia vào quân đội, các cơ quan công quyền Mỹ...đển nay, trong chúng tôi đã có được một hàng ngũ làm rạng danh người phụ nữ VN trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, những người phụ nữ đó có mặt trong mọi ngành nghề trong xã hội nước Mỹ, tôi xin đơn cử một số như dưới đây:

1.Nữ Khoa Học gia Dương Nguyệt Ánh, người sáng chế ra bom áp nhiệt, một người phụ nữ rất khiêm nhường và nhún nhường trước cộng đồng.                                        
Chuẩn Tướng Lục Quân Hoa Kỳ,  Cô  Danielle J Ngô  – gia nhập Lục quân Hoa Kỳ năm 1990, trong ngành Công binh.
3.HQ Đại tá Nha sĩ Tran Ngoc Nhung 
4.HQ Đại tá Nha sĩ Thu Phan Getka 
5.Đại tá Bác sĩ Không quân Huynh Tran Mylene
6. Cô Elizabeth Phạm, Không quân Trung tá F.18
7.Nữ khoa học gia Vật lý thiên văn Jane X. Luu, 
8.Nữ Thẩm Phán Mỹ gốc Việt  Bà Jacqueline H. Nguyễn 
9.Nữ Phó Thị Trưởng Thành Phố Westminster , Bác Sĩ  Kimberly Hồ
10.Vua đầu bếp Mỹ - Christine Hà 
11.Nhà trang điểm người Mỹ gốc Việt nổi danh thế giới, Michelle Phan sinh năm 1987, cô hiện đang sinh sống ở bang Florida, Mỹ.
12.Nhà thiết kế thời trang, cô Nini Nguyễn
13.Nhiếp ảnh gia gốc Việt – Bà Lê Mỹ An từng vinh dự nhận được giải MacArthur Fellowship – giải “Thiên tài” của Mỹ. 
14.Nữ nhà văn Lại Thanh Hà, là người phụ nữ gốc Việt tài danh trên thế giới. Lại Thanh Hà sinh năm 1965
15.Betty Nguyễn, Châu Nguyễn và Thúy Vũ là 3 trong số những  nữ MC gốc Việt đạt được nhiều thành công trên truyền hình Mỹ.
18.Jenny Tạ – nữ doanh nhân gốc Việt tài ba
19.Hai phụ nữ gốc Việt Van Ton-Quinlivan và Minh Dang nằm trong số những người sẽ được Nhà Trắng vinh danh vì có những đóng góp to lớn làm thay đổi nước Mỹ.
21.Nữ khoa học gia Tara VanToai,  gốc Việt thành công nghiên cứu đổi Gen cho cây đậu nành

22.Lê Duy Loan là một kỹ sư người Mỹ gốc Việt. Bà là người châu Á đầu tiên và là người nữ duy nhất được chọn vào ban lãnh đạo kỹ thuật cho hãng công nghệ toàn cầu Texas Instruments. Bà Lê Duy Loan có tên trong danh sách “20 phụ nữ xuất sắc nhất Houston trong lĩnh vực kỹ thuật”.Bà được chọn vào Hall of Fame của Women in Technology International (WITI), Chuyên Gia Kỹ thuật trong Năm (National Technologist of The Year).

23. Đặc biệt trong số đó có Bà Giao Phan,  nữ Hậu Duệ VNCH chỉ huy đóng 3 Hàng Không Mẫu Hạm Tối Tân Nhất Cho Hải quân Hoa Kỳ.  Bà là Tổng Giám đốc Điều hành, Cơ quan Điều hành Chương trình Hàng không Mẫu hạm, Hải quân Hoa Kỳ.

Bà  Giao Phan tâm sự, tôi tham gia chương trình đóng HKMH,  là một cơ hội cho tôi trả ơn Hoa Kỳ, nhất là Tổng thống Ford, vì tổng thống này đã tạo cơ hội cho gia đình chúng tôi được vào Mỹ hơn 40 năm trước đây, năm 1975 đó.
Nếu chúng tôi, đem những người phụ nữ thành công trên đất Mỹ  mà so sánh với "Nấm", thì quá là khập khiểng. Vì "Nấm" đâu có cái gì để so sánh với họ, ngoài cái tài vô ơn, ma mảnh trong chính trị, để ngoi lên trong cộng đồng Hải Ngoại."Nấm" cũng nên lắng nghe những gì mà người phụ nữ như Bà Giao Phan nói về sự trả ơn của bà cho nước Mỹ, mà bà đã chịu ơn, khi Mỹ đã cưu mang gia đình bà như thế nào?? 

"Nấm" nên nghe để hạ bớt độc tố trong "Nâm" để trở nên một thứ nấm có trong bảng liệt kê loài thực vật có ích cho môi trường sống, không nên để ngoài danh sách như hiện nay.

Không biết tôi có nên nói với "Nấm" điều nay không?? vì đó là những gì tôi đã học được trong cái kho tàng Việt Đạo do tổ tiên đã truyền lại tới về hai chử TÀI và ĐỨC. Tôi , người viết không biết "Nấm" có tài cán gì không? Nhưng có tài thì đừng nên cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần " Nấm" à!!

Xin mượn, "luận cái tài và cái Đức" của tác giả Tha Hương, để thay lời kết của bài viết này:

Chữ TÀI chữ ĐỨC trên đời
Tài là ân huệ của Trời ban cho
Còn chữ đức phải do tự luyện
Đức do tâm hướng thiện mà nên
Đức là nhẫn, đức là hiền
Đức là nhân tính của riêng loài người
Đức là nết, là lời thanh nhã
Với người quen kẻ lạ xung quanh
Đức là ngay thẳng công bình
Không gây hiềm khích, không sinh oán thù
Đức, sang cả cũng như nghèo khó
Chẳng mai kia, mốt nọ thay lòng
Buị đời không vẩn gương trong
Chẳng vì danh lợi bẻ cong khuôn vàng
Đức là chẳng vênh vang, hiếu thắng
Mà mang ơn sâu nặng của đời
Để mai, khi bỏ cuộc chơi
Còn lời tưởng nhớ, còn người xót thương
Đức là chẳng theo đường bất chính
Phản quê hương, lừa phỉnh đồng bào
Đức không phách lối, tự cao
Không dùng ngòi bút làm dao chém người

 Võ Thị Linh 29.03.2020
GỌI DƯƠNG VĂN MINH LÀ TỔNG THỐNG ĐÚNG SAI??


Dương văn Minh không còn mang cấp bậc Đại Tướng  kể từ ngày 21.5.1965, lý do đã giải ngũ, rời khỏi hàng ngũ quân lực VNCH và lại càng không có ai bầu làm Tổng Thống VNCH - đây là một trường hợp vi hiến nghiêm trọng Hiến Pháp 1967 của nền đệ nhị Cộng Hoà.

Tất cả tài liệu của cộng sản thường viết, ông DVM là tổng thống VNCH (?!). Nhưng thật ra trong chính sử VNCH không có ông nào là tổng thống tên Dương Minh theo đúng HP 1967. Chỉ có  Dương Văn Minh là  Đại sứ VN tại Thái Lan từ năm 1965 tới 1968, đó cũng là chức vụ cuối cùng của Dương Văn Minh.

Trong Wikipedia ghi ông "DVM là Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa", đó là lối viết thiếu chứng liệu lịch sử dựa trên Hiến Pháp 1967 của VNCH của các trí thức đỏ, một lối viết theo định hướng của Ban Tuyên Láo  mang màu sắc chính trị. Những người cầm bút có mặt thường trực trên Wikipedia được Ban Tuyên Láo tuyển chọn, đều là gia nô của chế độ, họ viết hoàn toàn một chiều, nhằm xuyên tác đánh tráo các khái niệm  lịch sử về chính thể VNCH.  Đám gia nô này có bao giờ dám viết  sự thật về một nội các bất hợp pháp do DVM lãnh đạo. Sự thật, DVM không h được coi là tổng thống VNCH, đừng nói là TT cuối cùng hay không cuối cùng. Xem Hiến Pháp 1967 của VNCH, qui định về quyền hạn, thể thúc bầu cử, ứng cử của Tổng Thống, Phó Tổng Thống ở CHƯƠNG IV: Hành Pháp, từ điều 51-59. Để biết sự bất hợp hiến của Việt gian Dương văn Minh. 
Tổng Thống VNCH, không phải do Quốc Hội bầu hay chỉ định, mà phải do dân bầu trực tiếp và kín bằng lá phiếu, không như trong chế độ độc tài CNXHVN.  xem Hiến Pháp 1967 của VNCH nơi đường link: http://www.danviet.de/doc/muc10/b3411d.pdf?fbclid=IwAR0OQjovKofwQpT3hJApme2xf4N3lQZnOT-ubv58Mf31-9QNWPuPkLLcMFM

VNCH CÓ HAY KHÔNG ĐẠI TƯỚNG, TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH??


Dương văn Minh làm tổng thống của VNCH trong tình trạng hoàn toàn vi hiến, chức vụ đại tướng của y cũng chỉ là tự xưng vì y đã bị cho giải ngũ từ ngày 21.5.1965. Coi như những năm sau 1965, DVM chỉ còn làm đại sứ tại Thái Lan tới năm 1968, sau đó trở lại làm thường dân của nước VNCH cho tới cuối tháng tư 1975.

Bảy năm sau cùng của VNCh, ông  Dương văn Minh chỉ là một công dân bình thường của VNCH không hơn không kém. 

Chính sử VNCH trong thời điểm từ 1965 cho tới cuối tháng 4/1975 không có ông Đại Tướng nào hay Tổng Thống nào với  cái tên là Dương văn Minh. 


Tất cả chỉ là trò hề chính trị của đám thổ tả thành phần thứ ba. Thế nên con tắc kè DVM này xuất hiện trong chính trường miền nam vào hai ngày cuối của VNCH và tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn vào sáng 30.4.1975 là một sự tiếm quyền và tự xưng trong chức vụ Đại Tướng và Tổng Thống VNCH, các chức vụ trên đều vi hiến, là láo khoét.



Vào những ngày cuối cùng của Nam Việt Nam,  Dương Văn Minh là người, mà bọn thổ tả trong quốc hội VNCH thuộc thành phần thứ ba, và phe thân Phật Giáo chọn và coi như là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm điều hành quốc gia (?!). Đám thổ tả này  đã vượt quá quyền hạn của người đại diện cho dân tại QH. Theo quyền hạn của một dân biểu quốc hội , những người này hoàn toàn không có quyền suy cử DVM lên làm tổng thống, một việc làm hoàn toàn tiếm quyền và vi hiến.

Lý do đám thổ tả này đưa Minh ra là vì Minh có người em là Tướng VC tên là Dương Văn Nhựt, nên họ nhắm vào việc này, và tin rằng Minh có thể là nhân vật đứng ra làm trung gian với Bắc Việt là thích hợp nhất để có được một giải pháp cho việc hình thành chính phủ Liên Hiệp. Con bài DVM đã được đám thổ tả dựng ra với một nội các bất chính gồm: Tổng Thống Dương văn Minh,  Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu... 

Nội các DVM gấp rút thành lập hoàn toàn bất chấp những các qui định về các điều từ 51 đến 56, ghi trong hiến pháp 1967 của nước VNCH về:" Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ", như trường hợp vô chính phủ của VNCH trong những ngày cuối.


Được đám thổ tả này bất chấp Hiến Pháp 1967, ngang nhiên ũng hộ và ủy thác Dương văn Minh lên làm Tổng thống - chưa đầy 48 tiếng, thì y đã  ra lệnh đầu hàng, tuyên bố của DVM được phát đi trên hệ thống Truyền Thanh Quốc gia vào buổi trưa ngày 30/4/1975.

Trí thức công chức cao cấp thổ tả của nền đệ nhị cộng hòa trong cái gọi là nội các DVM, đã ngu muội tin tưởng rằng khi suy tôn Dương văn Minh lên làm Tổng Thống, sẽ làm thay đổi được tình hình chính trị của miền nam trước áp lực quân sự của cs Bắc Việt. Nhưng tất cả sự việc đều xảy ra đều ngoài ngoài dự đoán của đám trí thức thổ tả này. Đến khi đám thổ tả này hiểu được cộng sản là gì?  thì đám này đã trở thành những tội đồ của người dân và đất nước VNCH. 

Ông Trần Văn Lắm, cựu chủ Tịch Thượng Viện đã từng kể lại với Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh rằng tối 27 tháng 4, ông Lắm đến báo tin với Cụ Hương về việc Lưỡng Viện Quốc Hội đã biểu quyết đồng ý trong tình thế ép TT Trần Văn Hương từ chức và trao quyền lại cho Dương Văn Minh rồi sau đó đến gặp ông Minh và đề nghị nên làm lễ bàn giao vào hồi 9 giờ sáng ngày hôm sau 28 tháng 4. Trần Văn Lắm kể lại việc bàn giao chức vụ tổng thống đúng một ngày sau khi quốc hội biểu quyết, đó không phải là ý của Cụ Hương mà đó là quyết định của Dương Văn Minh.

Người dân VNCH không quên ngày 28-4-75, khi cụ Trần Văn Hương bị ép từ chức tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì định chế hành pháp cũng đã theo chân cụ Hương không còn tồn tại nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội cũng giống như tình trạng của hành pháp,  không có thẩm quyền gì để bầu tổng thống, hay chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho ai. 

Nếu quốc hội đứng ra làm những việc đó đều được coi là vi hiến. Vì trong Hiến Pháp VNCH 1967 không có quy định Quốc Hội lưỡng viện VNCH được phép làm điều đó. Và quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã mịnh thị giao phó, qua những điều khoản được ghi trong hiến pháp.  Hiến pháp VNCH 1967 không có ghi một điều khoản nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai. Căn cứ vào điều ghi trong Hiến Pháp 1967, các điều từ 51 tới 59 thì Dương văn Minh chỉ là một Tổng Thống tự xưng (vi hiến), từ đó không có thẩm quyền đại diện cho quốc gia VNCH để nói chuyện với VC. Màn kịch 30.4.1975 do các diển viên Dương văn Minh và đám dép râu nón cối Bắc Việt chỉ là một màn hài kịch được dựng ra trong tình trạng vô chính phủ và thời điểm cuối tháng 4 -1975.

KHÔNG CÓ ĐIỀU KHOẢN NÀO CỦA HIẾN PHÁP VNCH 1967 CHO PHÉP DƯƠNG VĂN MINH ĐƯỢC LÀM TỔNG THỐNG


Ngày 30-4-1975, trong khi người dân bàng hoàng trước bản tin do Đại tướng kiêm Tổng Thống Dương văn Minh đọc trên đài phát thanh Sài Gòn,  kêu gọi người lính VNCH buông súng để bàn giao cho VC. Dương văn Minh một tổng thống tự phong (vi hiến) tự nó không có tư cách nào để đại diện cho chính quyền VNCH lúc đó! Dương văn Minh chỉ là thứ trái độn, một tên cướp cạn được đám trí thức thổ tả, là thành phần thứ ba và đám nón cối, dép râu nằm vùng đẩy ra chính trường trong lúc VNCH vô chính phủ.

Trích từ youtube "Lời Tuyên bố đầu hàng: "Có một điều thú vị đằng sau lời tuyên bố đầu hàng, đó là sự không nhượng bộ của chính ủy Bùi Văn Tùng khi ấy với Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Dương Văn Minh chỉ muốn nói là: Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, nhưng Trung tá Bùi Văn Tùng yêu cầu ông phải đọc là Tổng thống. Cuối cùng thì lời tuyên bố đầu hàng là: "Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống của Chính quyền Sài Gòn.", hết trích. Mời xem lại lời tuyên bố đầu hàng của DVM trong viddeo clip:https://www.youtube.com/watch?v=cpWK1oyM8ZE&feature=emb_logo

Căn cứ vào bản tuyên bố này người ta thấy được chính Dương Văn Minh cũng đã từng không nhận mình là "tổng thống" vì y biết đó là vị trí hoàn toàn vi hiến trong chức vụ Tổng thống của y - một chức vụ do đám thổ tã hám danh thuộc thành phần thứ ba và cộng sản Bắc Việt suy tôn chứ không phải là một tổng thống chính danh của VNCH được nhân dân miền nam  ủy thác để lãnh đạo. Nhân dân miền nam VN không có ai đồng thuận trong việc  tín nhiệm DVM làm tổng thống.

Hiến Pháp VNCH có ghi " nếu trong trường hợp không có Tổng Thống và Phó Tổng Thống để lãnh đạo đất nước , thì chủ tịch thượng viện lúc đó là ông Trần văn Lắm, chủ tịch Thượng Viện (1973 đến 30.4.1975) sẽ tạm thời đãm nhiệm việc lèo lái con thuyền quốc gia trong thời gian chờ bầu cử một lãnh đạo mới, chứ không phải là tên hám danh Dương Văn Minh.

Quân lực VNCH lúc đó trong tình trang hổn quan hổn quân, nên không còn để ý gì đến tính bất chính của Dương Văn Minh khi ông tuyên bố buông súng. Vận nước VNCH đến đây như ngọn đèn cạn dầu để rồi từ từ tắt lịm.

M LẠI:

Dương Văn Minh không là đại tướng hay tổng thống của VNCH,  đây chỉ là một sự mạo danh được sự hậu thuẩn của đám thổ tả trong lưỡng viện quốc hội VNCH và cs Bắc Việt, để lên màu cho thêm sắc rực rở của ngày cướp được chính quyền. Một màn kịch bản dưới sự đạo diển của phe gọi là cướp chính quyền đội lốt "Giải phóng miền nam".

Như vậy chính quyền VNCH chính danh chưa bao giờ đầu hàng cs Bắc Việt - Và cái chính quyền đó vẩn chưa mất quyền lãnh đạo quốc dân VNCH. Nếu như,  quí vị dân cử đó còn sống còn đầy đũ sức khoẻ,  đứng ra để tái lập VNCH, là việc làm hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp. 

Hình ảnh và tài liệu được người viết tham khảo từ trên Internet. Hình ảnh có điền thêm chữ vào để xác định thời điểm và nhân vật.

Góp chút vốn liếng cho góc khuất của sử VNCH, 
Hậu Duệ VNCH Lý Bích Thuỷ,25.03.2020
THẾ NÀO LÀ MỘT CHẾ ĐỘ NHÂN BẢN?
VNCH NHÂN BẢN TỪ TRONG HIẾN PHÁP

Nhân bản (từ Hán Việt), lấy con người làm gốc, lấy con người làm trọng. Đặt con người lên tầm cao nhất trong các cấu trúc xây dựng xã hội, hiến pháp...Thế nên chế độ nhân bản lấy dân (con người) làm gốc để thiết lập nền tảng chính trị quốc gia, tôn trọng đầy đũ các quyền căn bản của người dân khác với các chế độ độc tài, độc đảng. 

Trong chế độc tài độc đảng, họ cũng lấy con người (nhân dân) làm gốc, nhưng chỉ để mị dân, nhân dân trong chế độc độc tài, độc đảng
không tồn tại, nó chỉ là cái áo khoát bên ngoài chế độ - Chế độ này luôn tìm đũ mọi cách để hạn chế các quyền căn bản của người dân, để trục lợi cho nhóm lợi ích và bảo vệ sự tồn tại của chế độ.

VNCH NHÂN BẢN TỪ TRONG HIẾN PHÁP

Tính nhân bản của VNCH được ghi từ trong hiến pháp 1956 và hiến pháp 1967. Và VNCH thiếp lập một nền giáo dục nhân bản để đào tạo nhiều thế hệ giỏi cho xã hội. Ngoài ra nhân bản còn được đưa vào quân đội để thành lập một quân đội vì dân mà chiến đấu. Nhân bản được gắn trên đầu súng của từng chiến sĩ VNCH với mục đích giãm  mức sát thương khi lâm trận với kẻ thù, vũ khí được người lính VNCH xử dụng như là để khử bạo, trừng trị những kẻ ngoan cố vi phạm chủ quyền đất nước VNCH.
XEM HIẾN PHÁP VNCH 1956 và 1967.
Trích lời mở đầu của bản hiến pháp 1956 như sau:
" Chúng tôi, dân biểu quốc hội lập hiến:
Ý thức rằng Hiến Pháp phải được thực hiện nguyện vọng của nhân dân từ Mũi Cà Mau đến Ài Nam Quan - Nguyện vọng ấy là:

Củng cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;
Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;
Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;
Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý tri và đạo đức khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người đươc tôn trọng...."

Đây là một bản văn nói lên được bộ mặt và bản chất của một chế độ rất hoàn mỹ trong một thời kỳ 8 năm của nền đệ nhất cộng hoà (1955-1963), những điều ghi trong hiến pháp nêu được tính nhân bản cần thiết trong việc xây dựng đất nước theo chiều hướng đi lên của cộng đồng tiến bộ trên thế giới. Hiến Pháp 1967 của VNCH càng tiến bộ hơn, vị trí con người được đưa lên thêm tầm cao mới  về các quyền căn bản của người dân, tính dân chủ được nới rộng thêm nửa để đáp ứng với nhu tiến bộ của người dân miền nam trong thời gian tồn tại của chế độ.
Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 là bản Hiến pháp tốt nhất của Việt Nam trong tất cả các bản Hiến Pháp của cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam từng được soạn thảo. Trong khi điều 2 và điều 4 của dự thảo Hiến pháp CHXHCNVN năm 2013 quy định thể chế chính trị của quốc gia vẫn loanh quanh với những cụm từ mơ hồ như “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, những khái niệm lỗi thời như “liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”, những thứ chủ nghĩavà triết học đã bị nhân loại vứt vào sọt rác như “chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh (?)” thì điều 3 của Hiến pháp VNCH 1967 khẳng định sự phân nhiệm và phân quyền rõ rệt của ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm tự do, dân chủ và công bằng xã hội.

ĐỊNH HƯỚNG NHÂN BẢN TỪ HỌNG SÚNG ĐẾN VIÊN ĐẠN CỦA QL.VNCH:
Một số tài liệu mà người viết sưu tầm được, cho thấy con người được tôn trọng triệt để trên khắp nẻo đường đất nước, khắp nơi đều có thể nhận ra được thành quả về nhân bản mà chế độ và con người trong chế độ VNCH đã đạt được trong 20 năm dựng nước. 


Những người lính VNCH đều được học tập cẩn thận về tính nhân bản trong khi cầm súng để bảo vệ lãnh thổ VNCH trước sự xâm lăng của cộng sản miền bắc. Người lính VNCH khác xa với với quân đội bắc Việt, là những chiến binh với khẩu súng và hành trang được trang bị bằng chủ nghĩa, Họ sẳn sàng cuồng sát đồng bào mình để hoàn thành các mục tiêu cho đảng. Bản chất khát máu và cuồng sát của đảng csVN được Tố Hữu, một gia nô của đảng diển tả trong mấy câu thơ dưới đây:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”

Tính phi nhân của đảng và quân đội nhân dân, người miền nam VN không ai lạ gì qua trận gọi là "Tổng Tấn công" năm Mậu Thân 1968, xác dân Huế đã bị búa liềm giết hại một cách dã man, mà giờ đây đảng vẩn chối quanh và làm như ngây thơ  em chả biết các chú ấy làm gì?? đổ hết tội lên xác chết "Mặt Trận GPMN". Nhưng sự thật vẩn còn sờ sờ đó, chính hồ chí minh đã ra lịnh tấn công bằng bài "thơ chúc Tết", chớ nào phải Nguyễn Hữu Thọ hay Nguyễn Thị Bình ra lệnh tấn công (?!)

Đây là mật lệnh được đọc, đúng Giao thừa Tết âm lịch Mậu Thân theo lịch mới soạn ở BVN, tối Chủ Nhật 28-1-1968, rạng thứ Hai 29-1-1968, bài thơ “Mừng xuân 1968” do chính HCM đọc, được phát lại trên đài phát thanh Hà Nội như sau:

“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.”


(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, xuất bản lần thứ hai, 2000, tt. 333-334.)

Đây là chứng cứ lịch sử  bất khả chối,  thế mà 4 thập niên qua đảng vẩn chối quanh. Cuộc tàn sát đồng bào miền nam trong dip đầu xuân Mậu Thân 1968, đã làm cho 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm kê, trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo, kiểm kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên (VNCH và CS) kiểm soát. Những nạn nhân ở Huế gần 5000 người, có người bị đáp đầu bằng búa, hoặ trong những ngôi mộ tập thể chung quanh thành phố Huế. Nếu nói về tội ác này của cs Bắc Việt có lấy  ớc biển đông làm mực cũng không viết hết tội ác của cộng sản đã gây ra với đồng bào miền nam. Đó là chưa kể đến những tội ác sau 1975 ở miền nam...và những gì đảng đã làm trên 3 miền đất nước trong thời gian sau khi nắm vận mệnh cả hai miền đất nước.


Trong cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân, tổng số thiệt hại về nhà cửa ở các thành phố ước lượng khoảng 4,5 tỷ đồng VNCH (lúc bấy giờ) theo đó: 84,983 nhà bị hư hại từ 50 đến 100%, 30,343 nhà thiệt hại tới 50%. Riêng tại Sài Gòn, 18, 507 nhà bị thiệt hại từ 50% đến 100%. (PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Sách nầy trích số liệu trên đây từ sách The Vietcong Massacre at Hue của bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press, 1976.) 


Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ nghệ lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt hại 2,985,400,000 đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)
Với quốc sách chiêu hồi đầy nhân bản của VNCVH, không những thể hiện được tình anh em đồng bào cùng một bọc, mà còn tiết kiệm xương máu cho những người chủ chiến từ miền bắc, ngoài ra nó còn nói lên được tinh thần đùm bọc thương yêu trong truyền thống Việt đạo " bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Chương trình này đã cứu sống hơn 230.000 tay súng từ bên kia chiến tuyến để hoà nhập với thế giới tự do dân chủ và nhân bản của VNCH. Họ hoà nhập trong tình anh em, không có sự đối xử phân biệt như trong chế độ cộng sản. https://bienxua.wordpress.com/…/chuong-trinh-chieu-hoi-cua…/
Nhân bản của VNCH là thế đó! nếu đảng cs và Ban Tuyên Láo còn chút liêm sĩ thì đừng nên đánh tráo khái niệm về bản chất của VNCH. Đừng viết lịch sử bằng nòng súng, như thế chỉ làm bản chất phi nhân của "phe thắng cuộc" được nổi bật hơn, lần lần rồi lòng dân sẽ hướng về VNCH mổi ngày một nhiều hơn. Đừng nên hiểu, chửi VNCH thì dân xa lánh VNCH, nhưng tác dụng sẽ ngược lại, càng chửi càng mạ lỵ VNCH, thì sẽ làm giới trẻ tò mò đi tìm VNCH để tìm hiểu và khi tìm hiểu ra sự thật thì từ "thắng cuộc" đảng sẽ trở thành "thua cuộc". Cái tai hại của chế độ cộng sản là chửi VNCH liên tục 4 thập niên sau khi cướp được miền nam, thì nay rước lấy sự thất bại chua cay, phải đem sử ra sửa lại về sự hiện diện của VNCH thay vì phũ nhận như từ trước tới nay. VNCH bất chiến tự nhiên thành....Hữu xạ tự nhiên hương là vậy!!

TÍNH PHI NHÂN BẢN TRONG HIẾN PHÁP CHXHCNVN 1992 và 2013:

Qua lời mở đầu của các bản HP này đồng bào chỉ thấy tự ca ngợi, tâng bốc cá nhân và tuyên dương thành tích của đảng csVN. Một hình thức tự đánh bóng của các đỉnh cao cháy rụi trong cái gọi là Bộ Chính Trị đảng bán nước csVN. Bản hiến pháp sửa đổi 2013 cũng không thay đổi được nội dung của bản hiến pháp 1992 là bao nhiêu, chỉ thấy tăng thêm quyền sát phạt nhân dân bằng công cụ truyền thống là buá liềm. Và đảng quyết dẩn dắt toàn dân VN theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một chủ nghĩa đã đưa hồ chí minh vào danh sách của những tên đồ tể của thế giới vào thế 20. https://haiz00.wordpress.com/…/bao-anh-ho-chi-minh-la-mot-…/
Bản Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, xem nơi đường link: http://vnexpress.net/…/quoc-hoi-thong-qua-hien-phap-sua-doi… là văn bản mới về thời gian nhưng không mới về nội dung, đó là nội dung của HP1992 của nước CHXHCNVN chỉ có thêm thắt vài điều và nới rộng quyền hạn cho các đảng viên cs.
Lướt qua bản hiến pháp của CHXHCNVN người dân không tìm thấy được tính NHÂN BẢN được thể hiện trong bản văn mang tính LUẬT cao nhất nước này.HP 2013 tập trung những điều để mị dân hơn là để thực thi.
Truyền thống nhân bản chỉ có từ con người thấm nhuần văn hoá truyền thống Việt, điều nầy không bao giờ có nơi họ "hồ" và các đảng viên cộng sản. Họ là những người đã có tư tưởng đi ngoài truyền thống của ĐẠO VIỆT và TÌNH VIỆT lấy Marx và Lenin làm chủ đạo trong việc xây dựng  Hiến Pháp và xã hội.
Điều 4 hiến pháp của CHXHCNVN nói rõ : "lấy nền tảng Mác -Lenin và tư tưởng hồ chí minh và là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội- Qua văn bản này, tính nhân bản truyền thống của Việt tộc nằm ngoài lề bản hiến pháp!!

Ban Tuyên Láo đả dùng cái gọi là " Dân Chủ XHCN" để lý luận cho tính phi dân chủ của đảng độc tài. "Dân chủ XHCN" là không được tự do ăn nói, không có báo chí tư nhân (lề trái), không có tự do tôn giáo, dân không được bầu chọn người lãnh đạo đất nước. Tất cả lãnh đạo đều do đảng chỉ định. "Dân chủ XHCN" bỏ tù tất cả những ai nói yêu nước và chống giặc Tàu xâm lược VN, bỏ tù tất cả những ai đi biểu tình khi bị cướp đất cướp tài sản....."Dân chủ XHCN" cho phép đảng viên tham nhũng từ cấp thượng tầng xuống tới hạ tầng, cho phép  các đảng viên  ký các hiệp định hiệp ước có hại cho an ninh  quốc phòng, cũng như chuyễn nhượng đất đai, biển đảo để trừ nợ viện trợ súng đạn của TQ mà không cần ý kiến của dân.- mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân chứ không thuộc sở hữu nhà nước.

Một khi phi dân chủ thì chế độ không bao giờ tôn trọng nhân vị con người. Điều đó có thể nhận ra được qua chiều dài phát triển của đảng csVN hơn 70 năm qua, với một thành tích đầy máu và xương trắng khắp 3 miền đất nước.

Khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30.4.1975, người cộng sản càng lộ rõ bản chất phi nhân qua việc lùa quân cán chính VNCH vào các trại cải tạo, tức nhà tù theo cách nói của phe thắng cuộc. Người dân miền nam, những nạn nhân trực tiếp và gián tiếp đều bị trã thù dưới nhiều hình thúc như bị đưa đi đến các "vùng kinh tế mới", là những nơi rừng thiêng nước độc không có mầm sống, để trù dập gia đình các cựu quân cán chính VNCH và các thành phần được chúng gắn cho cái mác là tư sản....Bọn người thắng cuộc nầy còn dùng những cách cướp tiền của nhân dân qua cái gọi là đổi tiền, để vơ vét hết của cải nhân dân miền nam. Cã nước phủ màu tang trong những ngày đầu đoàn quân giải phóng có mặt khắp nẻo đường của miền nam. ..Hàng triệu người lại một lần nửa bõ nước ra đi, để tìm hai chử TỰ DO cho cuộc sống và tương lai....cã thế giới tự do đã rơi lệ vì những chiếc thuyền mong manh của người vượt biển tìm tự do trên biển cã mênh mông vào những năm từ sau ngày 30.4.1975 đến 1980, 1981,1982..1985, 1986.

Đôi dép râu dẫm nát đời son trẽ
Nón tai bèo che khuất nẽo tương lai
(ca dao)

Hai câu ca dao nói trên đã mô tả được chân dung của chế độ lấy "Dân Chủ XHCN" làm gốc, để đàn áp các giai cấp khác ngoài đảng, bỏ tù tất cả những ai chống đảng,  đảng đã dùng hiến pháp phi dân chủ để  làm lá chắn, che hết bầu trời VN. 

TÓM LẠI:

Phe thắng cuộc khỉ chiếm được đất đai, của cải vật chất của người miền nam nhưng họ đã không thể thu phục được lòng dân và họ đã thua luôn cái bóng của VNCH sau 45 năm có được chính quyền trong tay. Xem ra yếu tố "Quốc vĩ dân vi bản" là cụm từ xa lạ và hoàn toàn không hiện diện trong chế độ XHCNVN,  đó chỉ là cái áo khoát để loài vượn Pắc Bó được làm người.

Một khi đã không lấy dân làm gốc, thì chế độ trước sau gì sẽ trốc gốc vì đó là một căn nhà không có một nền móng vững chác để tồn tại lâu dài. Đảng cs và ban Tuyên Láo đã cố gắng ngày đêm dùng sách lược mị dân để chống đở căn nhà XHCN xiêu vẹo theo thời gian.

Bình luận từ Hậu Duệ VNCH Võ Thị Linh 24.03.2020