KÊNH VĨNH TẾ - MỘT CÔNG TRÌNH CHIẾN LƯỢC CHO QUỐC PHÒNG
CÒN LÀ CÔNG TRÌNH TRỊ THUỶ QUI MÔ THỜI NGUYỄN GIA LONG
Một công trình trị thuỷ lớn nhất cho vùng ĐBSCL của các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, An Giang thuộc miền Nam Bộ vào triều Nguyễn Gia Long, một câu chuyện chưa được nhắc tới về một trong những công trình chiến lược về quốc phòng cũng như rửa phèn cho vựa lúa chiến lược của miền nam VN. Công trình đào kênh Vĩnh Tế do sáng kiến của danh tướng Thoại Ngọc Hầu, một quan Khâm Sai Thống Binh Cai Cơ của triều Nguyễn Gia Long đã khởi xướng vào đầu thế kỷ XIX. Kênh Vĩnh Tế chảy song song với đường biên giới Việt Miên đổ ra vịnh Thái Lan, dài ngót 90 km, rộng 30 m, độ sâu trung bình 2.5 m; là một công trình thuỷ lợi có giá trị kinh tế to lớn quan trọng. Đồng thời con kênh cũng góp một phần không nhỏ trong việc đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua, rửa phèn, trị mặn cho ruộng đồng ngày một thêm màu mỡ. Giờ đây, ngày càng có nhiều con kênh nhân tạo khác được đào nối với kênh Vĩnh Tế nhằm tạo sự thuận lợi trong việc tưới tiêu cho những cánh đồng ở An Giang. Nước ngọt chảy đến đâu, đất “trở mình” đến đấy. Nhà cửa bà con nơi đây giờ đã khang trang và tiện nghi hơn, đời sống cũng được nâng lên một tầm cao mới.
Mục đích bài viết này: để ghi lại công trạng của một danh tướng thời Nguyễn Gia Long đã cống hiến tài sức trong việc chăm sóc hạnh phúc cho người dân bằng những hành động cụ thể để rửa phèn làm trù phú thêm cho vùng trồng lúa thuộc đồng bằng nam bộ.
TƯỚNG THOẠI NGỌC HẦU
Thoại Ngọc Hầu (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761-1829), tên thật là Nguyễn Văn Thoại (chữ Hán: 阮文瑞); là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Thoại sinh ra và lớn lên lúc Trịnh và Nguyễn đánh nhau liên miên, tiếp theo nữa là phong trào Tây Sơn nổi dậy (1771). Vì thế, mẹ ông phải dẫn ông và hai em chạy nạn vào Nam năm 1775, cuối cùng định cư ở làng Thới Bình trên cù lao Dài, nằm giữ sông Bang Tra và sông Cổ Chiên; nay thuộc địa phận huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1802, chúa Nguyễn thống nhất đất nước, lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Trong dịp thăng thưởng các bề tôi có công, Nguyễn Văn Thoại được phong Khâm sai Thống binh cai cơ, nhận nhiệm vụ ra thu phục Bắc Thành rồi được giữ chức Trấn thủ ở nơi đó. Ít lâu sau ông nhận lệnh làm Trấn thủ Lạng Sơn, rồi lại vào Nam nhận chức Trấn thủ Định Tường (1808).
Năm 1812, ông được cử sang Cao Miên đón Nặc Ông Chân về Gia Định. Năm 1813, ông hộ tống Nặc Chân về nước và ở lại đó, nhận nhiệm vụ bảo hộ cho Cao Miên. Ba năm sau từ Cao Miên về lại VN ông được triều đình Huế cử giử chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817).
Cũng trong năm này, ông cho lập 5 làng trên cù lao Dài. Ở trấn Vĩnh Thanh, ông sốt sắng lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:
1. Kênh Thoại Hà: khởi đào vào năm 1818, dài hơn 30 km, nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Đào xong được vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
2. Kênh Vĩnh Tế: đào theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc-Hà Tiên (tức nối sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan). Kênh dài hơn 87 km, huy động hàng vạn nhân công thực hiện từ năm 1819-1824 (có hoãn đào 4 lần). Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Tế.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông. Liên quan đến việc mộ dân lập làng của ông, sử nhà Nguyễn có đoạn chép: "Án thủ Châu Đốc là Thống chế Nguyễn Văn Thụy trước mộ dân dời đến ở đất biên thùy, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân, đã hoãn nhiều năm, dân vẫn chưa trả được. Đến nay Thụy đem của nhà trả bù cho dân".
Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei ngày nay) - Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại cho nhân dân. Lộ Núi Sam-Châu Đốc, dài 5 km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách.
Ông Nguyễn Văn Thoại mất vì bệnh tại Châu Đốc vào ngày 6 tháng 6 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Theo bảng tóm lược của Nguyễn Văn Hầu, trong 52 năm công vụ, Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) đã 7 lần sang Xiêm La, 2 lượt sang Lào và 11 năm giữ trọng trách bảo hộ Cao Miên.
Kinh Vĩnh Tế một công trình trị thuỷ có qui mô lớn nhất từ trước tới nay và là một công trình đầu tiên của triều Nguyễn được mang tên của người vợ chính của Thoại Ngọc Hầu, tức bà Châu Thị Tế (1766-1826) hay còn gọi là Châu Thị Vĩnh Tế. Việc làm ý nghĩa và chiến lược này của ông đã được truyền tụng qua các câu ca dao dưới đây:
Thấy lăng ông lớn hai hàng lụy rơi.
Ông ngồi vì nước vì đời,
Hy sinh tài sản không rời nước non.
Nước kênh Vĩnh Tế lờ đờ,
Nhớ ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an.
Đồng An Trường chó ngáp,
Làng Quới Thiện trồng lác bốn mùa.
Nhớ ông Bảo Hộ ngày xưa,
Dựng làng, mở cõi nắng mưa dãi dầu
(Ca dao)
KÊNH VĨNH TẾ
Kinh Vĩnh Tế được khởi công vào đầu năm 1819 với hơn 80.000 nhân công, kinh Vĩnh Tế bắt đầu từ sông Châu Đốc ( giữa phường Châu Phú A và xã Vĩnh Ngươn) chạy dọc theo biên giới đến Giang Thành thuộc tỉnh Kiên Giang dài 98.300m. Công trình này nhiều lần bị ngưng trệ vì dịch bệnh và thiếu kinh phí. Đến đời vua Minh Mạng, nhận thấy tầm chiến lược của kinh này nên ông ra lệnh tập trung nhân lực và tài lực vào việc đào kinh. Sang năm 1825 công trình này mới chính thức hoàn thành. Nhìn trên bản đồ, nó chạy dài như một con rắn uốn lượn qua dãy Thất Sơn huyền bí để thoát lũ ra biển, đồng thời giải mặn và phèn trong vùng đồng bằng Nam Bộ, nơi giáp giới với Cao Miên (Campuchia). Theo các tài liệu ghi lại, thời đó không có những phương tiện hiện đại để đo đạc , nên chỉ dùng kỹ thuật tuy đơn giản nhưng hiệu quả nhất là dùng ngọn lửa để phóng tiêu. Ban đêm, 3 ngọn đuốc được thắp sáng cách nhau hơn trăm mét được điều chỉnh thẳng hàng bởi một viên quan phụ trách do đạc. Còn ban ngày, nhân công căn cứ vào đó để đào kinh. Khi đến địa phận Cây Mít ( thuộc xã Nhơn Hưng huyện Tịnh Biên ) bị đá bàn ở chân núi cản lại nên lòng kinh không sâu, ghe thuyền phải chờ con nước lớn mới đi qua được.
Đến thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân mới cho đào một đường vòng qua chân núi đến Đầm Chích và xây một đập chặn để giữ nước lại. Ở hai đầu đường vòng này, người Pháp làm hai cánh cổng. Khi nước lớn, cổng phía Cây Mít được mở ra để ghe thuyền đi vào trong rồi mới đóng lại. Sau đó cổng phía Đầm Chích mới mở ra, chờ nước quân bình xong ghe thuyền mới đi ra được. Việc đóng mở hai cổng này hoàn toàn bằng tay qua hệ thống truyền động bằng bánh răng thép nặng hàng tấn. Còn đập chặn nước được xây bằng bê tông mặc dầu thời đó xi măng là một mặt hàng rất hiếm chỉ dùng cho các công trình trọng điểm và quốc phòng.
Đập này ngoài việc giữ nước còn có một nhiệm vụ quan trọng khác là ngăn nước mặn từ biển về. Rất tiếc là hai công trình đó hiện nay bị phá hủy không còn để lại dấu vết.
Sau này nhờ sử dụng mìn để phá đá nên lòng kinh mới sâu để ghe thuyền có thể lưu thông dễ dàng. Việc đào kinh Vĩnh Tế này giúp cho dân chúng qui tụ về đây sinh sống và thành lập 5 xã chạy dọc theo kinh như Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Điều và Vĩnh Gia. Việc giao thông đi lại bằng đường thủy cũng trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, hơn 3.000 nhân công đã vĩnh viễn nằm lại do “sơn lam, chướng khí” và “hùm tha, sấu bắt” hoặc những rủi ro do tai nạn trong lúc đào kinh đầy gian nan cực khổ nơi núi rừng hiểm trở này. Những nguời hy sinh được chôn cất rãi rác dọc theo bờ kinh. Số quan viên phụ tá cho Thoại Ngọc Hầu chết trong lúc đào kinh được chôn bên lăng mộ của ông có đến mấy chục ngôi mộ.
Tên Thoại Ngọc Hầu được dùng để đặt tên cho một đường phố lớn, một trường trung học chuyên tại tỉnh An Giang. Ở phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Sài Gòn cũng có một con đường mang tên ông. Tên Châu Thị Tế cũng được chọn, để đặt tên cho một con đường tại thành phố Long Xuyên.
Đền và khu mộ (gồm mộ: Thoại Ngọc Hầu, Châu Thị Tế và Trương Thị Thiệt), gọi chung là Sơn lăng, tọa lạc ở chân núi Sam (Châu Đốc), đã được liệt vào hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 4 tháng 12 năm 1997.
Qua việc đào kinh Vĩnh Tế này, chúng ta nhận thấy, người xưa đã có một tầm nhìn chiến lược về việc xã lũ, rửa phèn, chống mặn và tạo điều kiện đi lại cho dân chúng vùng An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Rất tiếc rằng kinh Vĩnh Tế qua gần hai trăm năm bị phù sa bồi lắng nên lòng kinh đã cạn đi nhiều so với trước đây. Nhiều đoạn kinh thuộc xã Vĩnh Gia huyện Tri Tôn vào những tháng hạn có thể xắn quần lội qua dễ dàng.
Tới nay sau 45 năm thống trị vùng ĐBSCL mà tà quyền cộng sản vẩn không tìm ra được một kế hoạch nào khả thi trong việc đưa nước ngọt vào các vùng bị hạn mặn, để giải mặn tháo phèn như người xưa đã từng thục hiện. Tà quyền tỉnh An Giang chỉ mới có phát hoạ kế hoạch nạo vét lại lòng kinh nhưng tới nay vẩn chưa hề thực hiện đúng mức. Đây là một công trình của tiền nhân, đóng góp không nhỏ trong việc chống nước mặn xâm nhập cho một số nơi trong vùng trồng lúa chiến lược gần 2 thế kỷ trước.
Viết để vinh danh danh tướng Thoại Ngọc Hầu, người đầu tiên đã có công đào con kênh lịch sử đóng góp thiết thực cho việc phòng thủ biên giới đồng thời giúp cho vùng trồng lúa của Nam Bộ thêm màu mở, phì nhiêu.
Biên khảo từ Hậu Duệ VNCH Võ Thị Linh 14.03.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét