CHỈ CÓ CHẾ ĐỘ NHÂN BẢN VNCH MỚI CHĂM SÓC TỐT CHO NGƯỜI NGHÈO TỪ MIẾNG ĂN CHO TỚI SỨC KHỎE

Chế độ cộng sản miền bắc XHCN - một chế độ độc tài độc đảng với chủ nghĩa phi nhân Mác Lênin là cốt lỏi để làm nền tảng cơ sở xây dựng xã hội, để rồi đem đến nhiều hệ lụy, làm cho người dân khốn khổ vì nghèo đói lạc hậu. Nếu như miền bắc xhcn đem so với miền nam trong cùng thời gian (1954-1975) thì có sự cách biệt khá lớn về mặt phúc lợi, tự do, dân chủ, nhân quyền, văn minh...

Miền nam VNCH may mắn được Tổng thống Ngô Đình Diệm xây dựng môt chế độ chính trị lấy nhân làm gốc, làm trọng tâm trong mọi hoạt động. Nhân vị chính là chủ thuyết xây dựng xã hội nhân văn của miền nam trong thời tổng thống Ngô Đình Diệm và là nền tảng cho các hướng hoạt động của nền đệ nhất Cộng Hòa.

Theo Hán-Việt Tự Điển của Đào-Duy-Anh thì NHÂN là Người và NHÂN hoặc có nghĩa khác là lòng thương người (nhân ái) ; VỊ có nghĩa là điạ-vị, hay chỗ đứng. Hai chữ này hợp lại để diễn tả: Vị-trí, phẩm giá và trách nhiệm của con người trong cộng đồng xã hội, một công việc chính yếu giửa người và người.

Chữ NHÂN trong Nho học, ngoài ý-nghĩa trên còn mang một bản chất siêu nhiên, “Nhân linh ư vạn vật”, nghĩa là con người linh thiêng hơn hết mọi loài và là nền tảng cho mọi sự phát triển và đi lên của cộng đồng thế giới. Con người khác với con vật ở chỗ biết suy-tư, tức là có một đời sống tâm-linh, lại còn có một đời sống vật chất biết hành động. Hai yếu tố tinh thần và vật-chất đối nghịch này lại cùng tồn tại và phát triển như là một thực thể duy nhất. Đấy là sự huyền diệu của bản chất con người.

Về căn bản chủ thuyết nhân vị đề cao cá nhân, lấy con người làm trung tâm. Nhân Vị là vị thế của con người, mà con người là mối tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục vụ, có ưu thế hơn các thực tế khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất. Con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn là cốt lõi vì nó là “một loài linh thiêng, vô hình, bất tử và bất diệt”. Trên mặt triết học, học thuyết này khai thác có hệ thống những phạm trù tôn giáo của thuyết Duy Linh mang đậm màu sắc giáo lý Thiên Chúa giáo. Đến năm 1951, khi ông Nhu rời Đà Lạt xuống Sài Gòn khái niệm Cần Lao được thêm vào vế thứ hai của lý thuyết. Và công khai phổ biến trên tuần báo Xã Hội.
Khi chế độ Việt Nam cộng hòa được thành lập năm 1955 do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo, Ông Ngô Đình Nhu đóng vai trò trợ thủ đắc lực cho ông anh mình là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vai trò của ông được thể hiện rõ nét qua việc thành lập hai tổ chức Đảng Cần lao Nhân vị và Phong trào Cách mạng Quốc gia , để làm để hổ trợ cho tân chế độ VNCH đệ nhất. Ông còn là một nhà chính trị lỗi lạc của nền đệ nhất CH. Nếu nhìn học thuyst Nhân Vị bằng nhản quan chính trị, tránh bằng nhản quan tôn giáo, thì đúng là một học thuyết tôn trọng con người, con người được đặt ở một vị trí cao nhất trong mọi quốc sách xây dựng xã hội.

Với những khát vọng về hạnh phúc của một dân tộc đã chịu nhiều đau khổ vì phải chống sự xâm lăng của bắc phương (giặc Tàu) gần 1000 năm và 100 năm phải đấu tranh với sự quản trị khắc khe của thực dân Pháp. Vì thế, các ông đã có cái nhìn thật xa cho hạnh phúc tương lai của Việt tộc khi được sống trong chế độ VNCH. Hai Ông Diệm và Nhu đã tận lực tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai… 

Với cái nhìn của hậu Duệ VNCH có thể còn thiếu sót  vì chủ quan, nhưng dù sao đi nữa chúng tôi đánh giá trên phương diện xây dựng đất nước, hai anh em Ngô chí sĩ là những người có cái nhìn sâu sắc về tương lai cho đất nước VN. Cả hai Ông Diệm và Nhu ao ước thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm. 

Ông Diệm và Nhu cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài chuyên chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân.” 

Là một con người quốc gia với tình yêu đất nước thật đậm đà yêu, điều này có thể nhìn thấy được qua cách ăn mặc của Tổng thống Ngô Đình Diệm , ông ăn mặc áo dài khăn đóng trong các buổi lễ quan trọng của quốc gia. Ngoài ra, ông đã ban hành một thông tư  ngày 5.10.1956, cấm kêu ông là "Cụ" hay "Ngài" trong lúc viết và trong xưng hô với ông.  Và theo thông tư số 103/TTp/ĐL các quan chức chính phủ phải bận quốc phục, áo lam, khăn đen trong các ngày đại lễ (Đoàn Thêm - Chuyện Từng Ngày 1945-1964 trang 202).

Với chử Nhân làm trọng tâm cho mọi hoạt động dựng nước, nên ông đã kêu gọi thế giới giúp ông định cư cho gần 1 triệu người miền Bắc di cư, chạy khỏi thiên đàng XHCN do hồ chí minh xây dựng ở miền bắc sau khi hiệp định Geneve ký kết giửa Pháp và Việt Minh vào tháng 7/1954, đưa đến việc chia đôi VN, lấy sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 làm ranh giới cho hai miền nam bắc VN. Công cuộc định cư cho người miền bắc là một nét son cho tân chính phủ VNCH dưới sự lãnh đạo của Ngô chí sĩ.

CHĂM SÓC GIAI CẤP NGHÈO TRONG XÃ HỘI VNCH

Để chăm sóc cho giai cấp nghèo trong xã hội, chính quyền đệ nhất cộng hòa do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã chú trọng đưa  Bộ Y Tế và Giáo Dục vào hàng quốc sách trong việc hình thành một xã hội hạnh phúc và nhân bản. Các học sinh đến trường đều được miển phí ở bậc tiểu học. Lên đến trung học và đại học nếu thi đậu và các trường công cũng được học miển phí. Về phần người dân khi bị bệnh đến bệnh viện được miển phí chăm sóc sức khỏe. Không như chế độ chó ngáp XHCNVN của đám đầu lĩnh Pắc Bó lãnh đạo cho tới nay chúng coi học sinh và bệnh nhân là nhà băng nhỏ để chúng rút tiền bằng nhiều cách rất tinh vi.

Ngoài việc đi học và chế độ y tế miển phí, nhà nước vì dân VNCH còn thành lập các nơi  ở với giá rẻ cũng như chổ ăn với giá rẻ (tượng trưng) cho giai cấp nghèo trong xã hội. hạnh phúc người dân từ giàu đến nghèo đều có cơ hội hưỡng được phúc lợi từ phía nhà nước cung cấp. 

Không như chế độ cs BỐ LÁO,  mà đám lãnh đạo cộng sản hay bla.. bla..là: Nhà nước XHCN là một chế độ "VÌ DÂN" cái gì cũng vì dân, nên dân nghèo trơ xác, nếu có bệnh thì nằm chờ chết  không có chế độ ưu đải cho giai cấp nghèo...con nhà nghèo chỉ còn đi bán vé số, không có cơ hội được vào trường. Thế nên XHCN được người dân gọi là: "Xã hội chó ngáp", "Xuống hố cả nước", " Xuống  Hàng Chó Ngựa", "Xếp hàng cả ngày"...Một chế độ thua xa xã hội VNCH về mặt nhân, dân quyền và phúc lợi..

Ngày nay ở miền Bắc, khó khăn lắm mới tìm ra được một cơ sở từ thiện của dân cho dân nghèo, trong khi đó ở miền nam thì đầy khắp phố phường người nghèo có thể nhận được: ổ bánh mì, nước trà đá, cơm miển phí hoặc với giá tượng trưng 2000 đồng, thuốc tây, sửa xe đạp,  sửa giày dép, xe chở bệnh nhân, nhà cho bệnh nhân ở tạm, dạy học, quần áo, ATM phát gạo ...tất cả đều miển phí cho dân nghèo. Nhưng có điều đáng ngạc nhiên,  tất cả không phải của nhà nước xhcn hay của đảng csvn, mà cúa người Sài Gòn, nơi có những cơ sở từ thiện đông nhất nước. Miền nam là nơi từng được hấp  thụ nền văn hóa Nhân bản trước 1975, nên các bậc phụ huynh truyền dạy lại cho các thế hệ nối tiếp tinh thần cống hiến vì tha nhân. Đây là bản chất khác biệt giửa hai miền!! Chúng tôi phân tích không nhắm vào phân biệt vùng miền, mà để đánh giá về tính nhân bản có trong văn hóa ứng xử của người Bắc và Nam có sự khác biệt lớn. Xem: http://lybichthuy.blogspot.com/2019/08/sai-gon-que-huong-cua-nhung-ta-m-long.html

QUÁN CƠM CHO NGƯỜI NGHÈO

Trong xã hội miền nam trước 1975, người nghèo cũng được hưỡng một chế độ chăm sóc đặc biệt ưu đãi các buổi cơm hàng ngày phục vụ , đó là các quán cơm xã hội rất thích hợp với túi tiền giới nghèo cũng như giới lao động tay chân ít tiền, sinh viên nghèo xa nhà...

Các quán cơm xã hội được tổ chức theo quy định của Bộ Xã Hội VNCH, thực đơn thay đổi mỗi ngày, phải có ba món bắt buộc: canh (có thể là canh rau, cạnh cải, bí đỏ...) món mặn (thịt kho, tàu hủ kho...), món xào (rau muống xào, hoặc bắp cải xào...). Cơm ăn không hạn chế, ăn nổi bao nhiêu quán mang cơm lên bấy nhiêu. Gạo được Bộ Xã Hỏi cung, loại bao chỉ xanh (100kg). Tráng miệng phải có một trái chuối, nước mắm miễn phí. Nước trà cũng miễn phí đựng trong bình khổng lồ bằng thiếc trắng. Giá một bữa cơm vào thờ điểm 1963 là 5$ VNCH, về sau nghe nói lên 7$ VNCH. Hình thức quán cớm XH được thành lập khắp miền nam VN để nuôi dân nghèo và giới lao động ít tiền, cũng như tầng lớp sinh viên nghèo.

Quán cơm XH thường mở của từ 10 giờ sáng đến 7 giờ chiều, đông đảo nhứt là giờ cơm trưa 11-1 giờ trưa, và cơm chiều 6-7 giờ. Trong giờ mở cửa, luôn có đại diện Bộ Xã Hội kiểm soát phần ăn đúng theo quy định, gạo phải dùng đúng số lượng cung cấp.

Không rõ Nhà nước chi trả phụ thêm cho quán cơm để quán cơm có thể đũ chi phí trang trải và có lời để duy trì sự sống cho chủ quán. Giá tiền cho mổi phần ăn cơm  với giá 5-7$ VNCH ở thời điểm đầu thập niên 1960. 

Khách các quán cơm xã hội phần nhiều là người lao động, sinh viên, học sinh xa nhà, mấy ông đạp xích lô trưa ghé lại ăn bữa cơm, quất trái chuối, nhấp ly nước trà và "khà' điếu thuốc Bastos xanh, đỏ, có khi là thuốc tự vấn lấy. Sau đó, thong thả đẩy xích lô tới dưới bóng cây, lên xe làm một giấc dưỡng sức, thức dậy lại tiếp tục cuốc xe buổi chiều.

DA LỮ VIỆN 

Ngoài việc tổ chức các quán cơm xã hội với giá thật thấp để giúp người nghèo có phương tiện sinh sống, nhà nước VNCH còn xây dựng các Dạ Lữ Viện để dành cho người nghèo tạm trú trong một khoản thời gian nhất định ở vùng Saigon. Dạ lữ viện, nguyên thuỷ là một khối kiến trúc rộng độ 200 mét vuông, toạ lạc tại mặt tiền đường Trần Hưng Ðạo nằm cạnh con hẻm 345, (Từ 1968 trở đi là Ty Cảnh Sát Công Lộ). Viện cung cấp cho mỗi người nghèo một chỗ nghỉ ngơi miễn phí trong vòng 7 đêm liên tiếp.. Tuy nhiên, những người về muộn do công việc hoặc do yêu cầu của chủ, có thể được vào nghỉ ngoài những khung giờ quy định trên đây. Riêng những người do cảnh sát dẫn đến được vào ngủ bất kỳ giờ nào trong đêm. Bên cạnh đó, Dạ Lữ Viện cũng tổ chức một văn phòng giới thiệu việc làm. Với danh sách người xin việc và thông tin việc làm được cập nhật mỗi tuần. Đến năm 1968 thì Dạ Lữ Viện đã không còn duy trì vì tình hình chiến sự, với lý do an ninh quốc gia, nên DLV được dùng làm trụ sở Cảnh Sát Công Lộ của VNCH.

Xã hội VNCH thật tuyệt vời, đây là những việc làm chỉ có trong trong chế độ "Ngụy Sài Gòn" một xã hội mà đám đầu lĩnh Pắc Bó tuyên truyền là phồn vinh giả tạo, tuy nhiên dân Pắc Bó không thể xây dựng được một xã hội đầy phúc lợi cho giai cấp ngheo như VNCH.

Để rồi người dân ngày hôm nay đã thấy được đúng bản chất  bịp bợm của cái gọi là "vì dân" của nhà nước xhcn và đảng csVN. 46 năm xây dựng thiên đường xhcn, những người nghèo đều bị đảng vất ra bên lề xã hội chó ngáp, không hề được đảng và nhà nước chăm sóc tử tế như trong chế độ VNCH.

Người dân ngày nay nếu ai nghèo, sẽ bị đảng xuất khẩu đi lao động khắp nơi trên thế giới, bất công trong XH tràn lan khắp hang cùng ngõ hẻm. Vì nghèo đói mà người dân bị đẩy đi mưu sinh nơi xứ người. Đứa bé mồ côi Philipp Rösler nếu còn sống trong cô nhi viện ở Sóc Trăng, thì làm sao có thể là một Phó Thủ Tướng nước chxhcnvn?? May thay cậu bé nầy được cha mẹ nuôi người Đức nuôi dạy, nên đã từng là Phó Thủ Tương một cường quốc như Cộng Hòa Liên Bang Đức. 
Với chủ thuyết Nhân Vị, hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, coi đó là một vũ khí chính trị để đối đầu với chủ thuyết cộng sản và xây dựng một chế độ đem lại hạnh phúc cho toàn dân miền nam VN, người dân đã thật sự có cuộc sống thật sung túc trong thời đại 9 năm cầm quyền của ông Ngô Đình Diệm, đây chính là một chứng minh cụ thể cho hiệu ứng của chủ thuyết Nhân Vị trong viêc xây dựng nước VNCH giàu mạnh nhân bản - từng được mệnh danh là hòn ngọc viển đông, được nhiều cường quốc Đông Nam Á kính nể. Và với đường lối chống cộng cương quyết của các nhà lãnh đạo miền nam, bọn cs Bắc Việt đã phải chịu những thất bại nặng nề trong việc phá hoại trước quốc sách Ấp Chiến Lược được thực hiện nhiều nơi ở miền nam.

Trong niềm luyến tiếc và ngậm ngùi cho thân phận những người lưu vong, chúng tôi hậu duệ VNCH vùng nam Đức xin được thấp nén nhang gởi đến nhị vị Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, những nạn nhân của Mỹ và các tên phản tướng đã cấu kết với nhau để sát hại hai nhân vật ưu việt của con dân miền nam, để rồi VNCH đã mất đi những vị lãnh đạo anh minh, được thế giới tự do kính nể. 

Họ đã giết chết một miền nam sung túc và hạnh phúc nhất khu vực trong cùng thời điểm với VNCH đệ nhất. Một quốc gia mà đồng tiền VNCH có tỉ giá vào ngày 17.12.1955, lớn hơn đồng tiền của Pháp (1 đồng VNCH = 10 quan Pháp), 1 Mỹ kim=38 đồng VNCH. Ở thời điểm 1956, Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Cộng hòa cao gấp 4,4 lần so với Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Bình quân đầu người của VNCH 105 US$/ năm, cao gấp hai VNDCCH 51US$/năm. 

Đó là giá trị đồng tiền VNCH trong những năm chưa nhận viện trợ của Mỹ. Nếu đem đồng tiền VNCH so với hồ tệ của miền Bắc XHCN, thì chưa tới mắt cá của VNCH. Thế nhưng đảng csvn, Ban Tuyên Láo và đám truyền thông gia nô, cũng như đám sử gia trí thức đỏ trên Wikipedia.. đã ra công viết rất nhiều bài nhằm cố tình xuyên tạc nền kinh tế phồn thịnh của VNCH và đánh tráo khái niệm về nghèo đói trong xã hội miền nam trước 1975. Điều đó, cho thấy một miền bắc XHCN quá kém cỏi nên phải nhờ đến đám gia nô viết mướn theo đơn đặt hàng của đảng. 

Chúng càng viết càng phản tác dụng, phe thắng cuộc đã tự thú trước người dân về sự thất bại của mình. Cho dù chúng có chứng minh bao nhiêu thì những hình ảnh về sự phồn thịnh của nền KT/VNCH ở miền nam vẩn còn hàng ngàn tấm hình về sinh hoạt của xã hội miền nam và miền bắc có cùng thời điểm, đều chênh lệch khá xa về mạt đời sống của hai miền. Đó là những tấm ảnh biết nói, mà đảng và Ban Tuyên láo không thể phản biện và xóa hết trên Google.

Một vài nét viết vội trong mùa quốc nạn thứ 46 trên đất tạm dung bên ngoài VN, để vinh danh và biết ơn hai nhà sáng lập chế độ chính trị cộng hòa cho miền nam VN từ 1954-2.11.1963. Cái nhìn của Hậu duệ VNCH chúng tôi đặt ngoài sự tranh chấp của tôn giáo, chỉ nêu việc hai nhà sáng lập xây dựng được một chế độ chính trị văn minh, tự do, dân chủ ..với một chiến lược hữu hiệu để đối phó với sự xâm nhập phá hoại của cộng sản miền bắc, mà VNCH đệ nhất đã thành công rất tốt đẹp.

Biên khảo lịch sử VNCH Hậu Duệ VNCH Lê Kim Anh, 04.04.2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét