Y SƯ TUỆ TĨNH, NGƯỜI ĐÃ ĐEM NGÀNH Y DƯỢC NƯỚC NAM THOÁT TRUNG : " NAM DƯỢC TRỊ NAM NHÂN"
Y sư Tuệ Tĩnh chính là người Việt đầu tiên đã tách rời ảnh hưởng của ngành y, dược nước ta ra khỏi ảnh hưởng của Bắc phương. Đại y sư Tuệ Tĩnh một người Việt với trái TIM VIỆT, câu nói nổi tiếng đầy Việt tính Việt tình là " NAM DƯỢC TRỊ NAM NHÂN", nghĩa là thuốc Nam trị bệnh cho người Nam (Việt Nam). Sở dĩ Thần y Tuệ tĩnh đưa ra khẩu hiệu, vào thời gian mà ngành y dược nước Việt chúng ta chịu ảnh hưởng nặng nề của y học Tàu (còn gọi là thuốc Bắc) vì sự đô hộ ngàn năm của Bắc Phương.
Với tấm lòng yêu nước vô biên, y sư đã khổ công tìm tòi và phát minh ra nhiều loại thuốc để chửa trị, phòng bệnh, cung cấp thuốc men cho Việt tộc và thiết lập một số hệ thống cung cấp dược thảo trị bệnh khắp nước, mục đích để tách dần ảnh hưởng của thuốc Bắc ra khỏi Việt tộc, tạo thế độc lập cho ngành y dược nước Nam chúng ta. Hành động cao cả này phát xuất từ tình yêu đất nước, yêu dân tộc của nhà danh y Tuệ Tỉnh thiền sư với chủ trương sáng tạo, khai phóng và dân tộc. Ông đã để lại một kho tàng y, dược to tát cho con dân nước nam, còn được các bác sĩ đông y áp dụng để chửa trị cho người dân Việt.
Công lao đặc biệt của ông chính là đề xướng một nền y học tự chủ, tự cường, độc lập gần giống như một trong nhiều khẩu hiệu chống Tàu "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam " .
Không những viết sách, chữa bệnh ông còn tổ chức cho người dân biết cách vệ sinh, phòng chống bệnh, truyền dạy cho nhiều đệ tử và biến các chùa thành nơi chữa bệnh (giống như trạm xá ngày nay). Đây là tư tưởng hết sức tiến bộ của ngành y nước Việt chúng ta từ ngày xưa như là: điều trị, phòng bệnh, chửa bệnh và tận dụng thế mạnh tổng hợp các cây thuốc có trong thiên nhiên trên địa bàn nước ta, tạo ra một di sản quý báu cho các thế hệ sau.
Tuệ Tĩnh là người rất giỏi về thuốc ở nước ta, rồi trong một dịp đi sứ sang Tàu giặc Minh đã giử lại làm việc trong viện Thái y. Trên đất tàu, y sư Tuệ Tĩnh chữa cho Tống vương phi (vợ vua Minh) khỏi bệnh sản hậu, nên được phong là "Đại Y Thiền sư". Hiện nay ở các đền thờ Tuệ Tĩnh có những câu đối ngụ ý về các sự tích đó, điển hình ở đền Bia làng Văn Thai có câu :
Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa,
Thánh sư diệu dược trấn Nam bang"
Tạm dịch :
Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng đất Bắc (Tàu)
Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam bang"
THÂN THẾ:
Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Huệ Tĩnh.). Ông xuất thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyên Công Vỹ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cầm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng.
Theo truyền thuyết ở địa phương, ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông ( thế kỷ XIV), lúc lên 6 tuổi, cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học (chùa Hải Triều sau gọi là chùa Nghiêm Quang tức chùa Giám ở xã Cẩm Sơn, vì bị đất lở, đã dời đến xã Tân Sơn cùng huyện Cẩm Bình). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Đình) đưa về cho ở học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Tại đây, ông được gọi là Tiểu Huệ nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học văn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Đến 22 tuổi, ông đi thi hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Năm 30 tuổi, ông trở về trụ trì chùa Yên Trang. Ông đã tu bổ lại chùa này với một số chùa khác (24 ngôi) ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các tăng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc.
Năm 45 tuổi, ông thi Ðình, đậu Hoàng giáp. Năm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc. Theo Quốc sử di biên của Sứ quán triều Nguyễn nói Tụê Tĩnh mất ở Giang Nam Trung Quốc không rỏ năm nào. Vì Ông bị nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bên ấy.
SỰ NGHIỆP:
Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ông đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời.
Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ người dân và phát triến nền y học dân tộc:
- Danh y Hoàng Đôn Hòa, Lương dược hầu dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây) đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch năm 1533 với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương, và chữa cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thồ tả ở Thái Nguyên năm 1574 với thuốc Tam hoàng hoàn gồm Hoàng nàn, Hoàng lực do Tuệ Tĩnh đã phát hiện ở Nam dược thần hiệu và Hùng hoàng đã được dùng chống khí độc lam chướng ở Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh nói ở Bổ âm đơn về phòng bệnh hư lao, đã được Hoàng Đôn Hòa cụ thể bằng thuyết "Thanh tâm tiết dục" với phép "Tịnh công hô hấp" ở sách Hoạt nhân toát yếu.
-Danh y Hải Thượng Lãn Ông (thế kỷ XVIII) đã thừa kế 496 bài thơ dược tính của Nam dược thần hiệu chép vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của Tuệ Tinh chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Tuệ Tỉnh về giữ gìn tinh khí thần để sống lâu cũng được Lãn Ông phụ họa thêm ở thiên Khởi cư của tập "Vệ sinh yếu quyệt ".
Đặc biệt nhất của Tuệ Tĩnh là việc trồng cây thuốc nam chung quanh nơi ở của người dân, từ đó để lại một tập quán trong sinh hoạt hàng ngày của Việt tộc là: trồng một số cây ở vườn đền chùa vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đình, mọi người ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc thường có quanh mình, cùng các phép xông hơ, chườm nóng, xoa bóp... để chữa một số bệnh ban đầu, khi mới xảy ra, rất tiện lợi.
Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đã phục vụ sức khỏe người dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. Vì vậy, Việt tộc đã lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Bình, tinh Hải Hưng. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng dẳng phúc thần năm 1572, theo thần phả do Nguyễn .Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).
Các tác phẩm y dược nổi tiếng của ông để lại là:
*Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư (do Thái y viện đời Lê Dụ Tông in năm 1717, tái bản năm 1723, 1725. Nội dung tóm tắt công dụng của 630 vị thuốc, 13 phương gia giảm, có thiên dùng thuốc theo chứng, có các thiên bàn về y lí, chẩn đoán, mạch học.
* Nam Dược Thần Hiệu có 11 quyển, gồm 580 vị thuốc trong nước, 3873 bài thuốc để trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.
* Nhân Thân Phú.
* Thập Tam Phương Gia Giảm.
* Thương Hàn Tam Thập Thất Chủng.
Trong sách "Nam dược thần hiệu" bản cổ của Danh Y Tuệ Tỉnh viết, đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Trong 30 năm hành nghề y dược ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh.
Bộ Nam Dược thần hiệu chia làm 10 khoa được ông tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư gồm 2 quyển biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Đường luật nôm, và bài "Phú thuốc Nam" 630 vị cũng dùng quốc ngữ. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ.
Ông cũng nêu lên nguyên tắc của dưỡng sinh mà ngày nay vẫn được coi là nguyên tắc chỉ đạo trong dưỡng sinh là ‘Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình’. Bài tựa quyển sách ‘Nam Dược’ có câu: “Dục huệ dân sinh, tu tầm thánh dược. Thiên thư dĩ định Nam bang, thổ sản hà thù Bắc quốc” (Muốn cứu dân sinh, phải tìm thánh dược. Thiên thư đã định phận nước Nam, thổ sản có khác gì Bắc quốc”.
Ông nổi tiếng với câu nói bất hủ: “Nam dược trị Nam nhân”. Chúng tôi, những con dân nước Việt, xin phép được ghi lại vài nét người danh y nổi tiếng của đất Việt với tấm lòng yêu nước yêu dân nồng nàn. Cảm ơn ông đã có những nổ lực lớn trong việc đem ngành y, dược VN thoát Trung từ những thế kỷ mà văn tự VN vẩn còn dùng đến chử Hán trong mọi sinh hoạt.
BÀI LIÊN KẾT:
1.Người đưa di nguyện danh y Tuệ Tĩnh về nước
2.HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Biên khảo từ Hậu Duệ VNCH Võ Thị Linh, 15-2-2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét