HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA: VẤN ĐỀ KẾ THỪA
Nếu không làm các thủ tục cần thiết để kế thừa di sản Việt Nam Cộng Hòa, Hoàng Sa đã mất vào 18-1-1974, sẽ mất đi vĩnh viễn. Trường Sa, trên danh nghĩa, đã mất từ 30-4-1975, cùng lúc với sự giải thể của VNCH.
Kế thừa là một thủ tục pháp lý cần thiết. Nó có thể trễ, nhưng không thể không thực hiện để kế thừa danh nghĩa chủ quyền về lãnh thổ.
1/ Tư cách pháp nhân của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam.
MT khai sinh ngày 20-12-1960 theo nghị quyết của của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba của đảng CSVN (lúc đó có tên là đảng Lao Động), được đặt dưới sự lãnh đạo của bộ Chính trị đảng CSVN và Trung ương cục miền Nam.
Mục tiêu của MT :
« đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, để thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhứt tổ quốc. »
MT là một « thực thể chính trị » trực thuộc đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay), do cán bộ đảng CSVN lãnh đạo.
MT quan niệm chế độ VNCH là « ngụy, tay sai của đế quốc Mỹ ». Người Mỹ hiện diện ở miền Nam là « đế quốc », là « quân cướp nước ».
Cuộc chiến được gọi là cuộc chiến tranh « giải phóng ».
Thực thể chính trị MTGPMN được thế giới biết đến qua biến cố « tổng tấn công tết Mậu Thân 1968 ». Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN được thành lập ngày 8-6-1969. Thực thể này được VNDCCH cùng các nước trong khối cộng sản công nhận.
Ngày 30-4-1975 chính quyền VNCH sụp đổ. Trước các định chế quốc tế (mà chính quyền VNCH là đại diện cho một nước Việt Nam duy nhất), tên gọi Việt Nam Cộng Hòa đổi tên thành Cộng hòa miền Nam Việt Nam qua một số thủ tục đơn giản[i].
Việc « kế thừa » VNCH của CPCMLT tại các định chế quốc tế chỉ là việc « đổi tên nước ».
Điều cần ghi nhận, đại diện của Việt Nam Cộng Hòa tại các định chế quốc tế là đại diện cho một nước Việt Nam duy nhất và thống nhất, gồm ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong khi CPCMLT chỉ đại diện cho miền Nam, tính từ vĩ tuyến 17.
Điều ghi nhận khác, sau 30-4-1975, VNDCCH cũng xin gia nhập vào các định chế quốc tế thuộc LHQ[ii].
Lập trường một quốc gia Việt Nam duy nhất, xác định theo Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1972, có hiệu lực từ 1954 đến 1975, được hai bên CPCMLT và VNDCCH đồng thuận hủy bỏ.
Tức là trong giai đoạn 30-4-1975 đến 2-7-1976, có hai nước VN : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Việc thống nhứt đất nước 2-7-1976 như thế là thống nhứt giữa hai quốc gia.
2/ Sự kế thừa và liên tục quốc gia theo Luật quốc tế.
Điều 1 của Nghị quyết của LHQ về các vấn đề « kế thừa và sự liên tục quốc gia » qui định :
« Sự kế thừa của quốc gia là sự thay thế quốc gia đó trong trách nhiệm về những quan hệ quốc tế liên quan đến lãnh thổ. »
Điều 2 của Nghị quyết :
« Sự kế thừa của quốc gia bao gồm những tình huống : a/ quốc gia giải thể (gián đoạn, không có kế thừa), b/ chuyển nhượng, tức chuyển giao vùng lãnh thổ của quốc gia này cho một quốc gia khác (có sự liên tục của hai quốc gia, từ quốc gia chuyển nhượng sang quốc gia kế thừa), c/ ly khai, tức một lãnh thổ tách rời tự thành lập một quốc gia khác (liên tục quốc gia tiền nhiệm với sự thành lập một quốc gia mới), d/ những trường hợp thống nhất của hai hay nhiều quốc gia (sự liên tục của quốc gia với sự kết hợp của quốc gia này vào một quốc gia kia hay tính gián đoạn của hai hay nhiều quốc gia với sự thành lập một quốc gia mới). »
Nước CHXHCNVN được thành lập do việc thống nhứt hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN. Vấn đề kế thừa lãnh thổ, theo hướng đẫn của Nghị quyết LHQ, vì vậy phải tuân thủ.
Động thái này nhằm tái xác định, hay phủ định, hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước (hay quốc gia) tiền nhiệm đã thể hiện đối với các nước khác.
Bà Monique Chemilier-Gendreau, trong tập La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys [iii] viết :
« Như vậy, chính quyền Sài Gòn, và chỉ chính quyền này mới được phát biểu về vấn đề các đảo HS và TS. Họ đã làm các việc đó. Họ đã làm việc đó với tư cách là người thừa kế các quyền của nước Việt Nam trong giai đoạn tiền thuộc địa. »
Điều 3 của Nghị quyết của LHQ về các vấn đề « kế thừa và sự liên tục quốc gia » :
« Sự liên tục của quốc gia có nghĩa là tính cách pháp nhân của quốc gia trong luật pháp quốc tế vẫn tồn tại bất chấp những thay đổi về lãnh thổ, dân số, hệ thống chính trị - pháp lý và quốc hiệu. »
Cho thấy tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam không thay đổi từ nhà nước phong kiến sang nhà nước bảo hộ cho đến nhà nước VNCH. Chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện liên tục, từ các nhà nước phong kiến, chuyển sang nhà nước thuộc địa Pháp, sau đó là VNCH.
Nhà nước VNCH đã kế thừa và thể hiện các quyền của quốc gia Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau 30-4-1975, Nhà nước CPCMLT đã có các động thái nào nhằm thay thế chính quyền VNCH về các vấn đề lãnh thổ, đặc biệt tại Hoàng Sa và Trường Sa ?
Tương tự, sau năm 1976, nhà nước CHXHCNVN đã thể hiện các hình thức kế thừa nào, trước quốc tế, để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS ?
Quốc tế cần phải biết thái độ của các chính phủ mới về chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cần thiết. Ở Trường Sa, một số nước đã chiếm đảo của VN một cách trái phép. Trong khi ở Hoàng Sa thì TQ đã xâm lăng quần đảo này bằng vũ lực tháng 2 năm 1974.
Việc lên tiếng không chỉ là cần thiết mà còn là bắt buộc, nếu các nhà nước VN, sau 30-4-1975, muốn khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo này.
Tháng giêng 1974, nhân việc Trung Quốc đem quân xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam có tuyên bố lập trường của mình. Theo đó nhìn nhận có việc tranh chấp đồng thời cho rằng « chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc ». Tờ Le Monde số ngày 27 loan tin « đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Hội nghị La Cell St-Cloud đã bác bỏ đề nghị của Sài Gòn ra một nghị quyết chung lên án việc Trung Quốc dung vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa ».
Thái độ của CPCMLT sẽ không thuyết phục, nếu cho rằng chính phủ này đã khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa.
« Lãnh thổ là thiêng liêng » thì không thể chỉ đơn thuần « bảo vệ » lãnh thổ bằng lời nói hay bằng thái độ của kẻ ngoại cuộc.
Trong khi nhà nước VNDCCH thì hoàn toàn im lặng trước hành vi xâm lăng của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Liên Xô thì lên án mạnh mẽ hành vi này.
Theo tập quán quốc tế, người ta xem thái độ giữ im lặng của một quốc gia trước động thái của một quốc gia khác là sự mặc nhiên đồng thuận về động thái đó. Thái độ im lặng của chính phủ VNDCCH trước việc TQ xâm lăng HS có ý nghĩa pháp lý là thái độ mặc nhiên đồng thuận về việc TQ « giải phóng HS ».
Phía VNCH, dĩ nhiên, chính phủ này đã phản kháng mạnh mẽ, bằng vũ lực tự vệ và bằng mọi nỗ lực ngoại giao, đúng như thủ tục cần thiết theo qui định của quốc tế trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ.
Từ đó, cho đến khi thống nhất đất nước, các chính phủ CMLT và VNDCCH không có động thái nào khác nhằm khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Trên nguyên tắc, sau khi VNCH giải thể, không có nhà nước kế thừa, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở thành vô chủ.
Điều nên biết, lập trường của Hoa Kỳ, VNCH là một quốc gia bị giải thể[iv] :
The Republic of Viet Nam, both of a state and government, had ceased to exist in law or fact and the United States had not recognized any government as the sovereigh authority in the territory formerly known as South Viet Nam
Tạm dịch: Việt Nam cộng hòa, quốc gia và chính quyền, đã ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lý và thực tế. Hoa Kỳ không công nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lãnh thổ trước kia mang tên Nam Việt Nam.
3/ Quốc gia Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam có kế thừa HS và TS từ VNCH ?
Ngày 2-7-1976 hai nước VNDCCH và CHMNVN hiệp thương thống nhứt đất nước. Với tư cách một quốc gia khác, sau khi thống nhứt đất nước, CHXHCNVN có kế thừa VNCH hay không ?
VNDCCH luôn quan niệm VNCH là một chính quyền « tay sai của ngoại bang », là « ngụy » cần phải lật đổ. Trên lý thuyết không thể hiện hữu vấn đề kế thừa.
Bà Joële Nguyên Duy-Tân[v] có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 9-9-1978, cho thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của thực dân Pháp (chuyển sang VNCH) :
A la suite de la disparition de la République du Sud VN, le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration indiquant qu’il entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout 1955, conclus entre la République française et l’ancien gouvernement Sud Vietnam. Il en résulte, conformément au principes du droit international actuel en matière de question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le gouvernement actuel de VN et qu’il sont devenus caduc.[vi]
Tạm dịch : Tiếp theo sự biến mất của Cộng hòa miền Nam, chính phủ VN mới đã không ra tuyên bố cho biết họ kế thừa các hiệp ước 16-9-1954 và 16-8-1955, ký kết giữa Cộng hòa Pháp và chính phủ miền Nam VN cũ. Vì vậy, chiếu theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện thời về vấn đề kế thừa quốc gia, các hiệp ước này không còn ràng buộc chính phủ VN hiện thời và chúng trở thành vô giá trị.
Một loạt các hành động khác, như CHXHCNVN ký kết vào hiệp ước « Không phổ biến vũ khí nguyên tử » với tư cách một quốc gia mới, từ chối kế thừa VNCH[vii].
Tuyên bố CHXHCNVN gởi chính phủ Thụy Sỹ, dẫn từ Conrad G. Buhler, nhìn nhận CHXHCNVN “liên tục” với quốc gia tiền nhiệm VNDCCH :
The S.R.V will continue the participation of the DRV and the RSV in the four “Geneva convention of 1949” concerning the protection of war civil victims with the same observations as those set forth by the DRV and the SRV.
Ta thấy trong văn bản trên, VN đã sử dụng chữ “sẽ tiếp tục” thay vì “kế thừa” VNDCCH.
Tính liên tục quốc gia đã được thể hiện : di sản của VNDCCH được chuyển sang CHXHCNVN. Việc này càng rõ rệt hơn khi ta nhận thấy đảng lãnh đạo nhà nước VNDCCH trước kia và đảng lãnh đạo nhà nước CHXHCNVN hôm nay là một : đảng CSVN.
Vấn đề kế thừa chính phủ CMLT cũng không đặt ra. Những người lãnh đạo chính phủ này cũng là nhân sự của đảng CSVN.
Tóm lại, nhà nước CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH.
4/ Muốn giữ Biển Đông là phải kế thừa di sản VNCH.
Năm 1988, Trung Quốc chiếm một số đảo Trường Sa bằng vũ lực. Phía VN đã không đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo An LHQ cũng như kiện TQ ra trước Tòa án Công lý quốc tế. Thời điểm này, CHXCNVN đã gia nhập LHQ, có đủ tư cách pháp nhân (mà phía VNCH trước kia không có) để kiện (hay thách thức kiện) TQ.
Đầu thập niên 90, TQ đã cho phép công ty dầu khí của Hoa Kỳ khai thác tại vùng Tứ Chính – Vũng Mây (Vạn An Bắc, gọi theo TQ). VN có nhờ tổ hợp Luật sư Hoa Kỳ thiết lập hồ sơ, có lẽ có ý định « kiện » công ty dầu khí Crestone, chứ không nhằm kiện TQ.
Vấn đề đặt ra, tại sao nhà nước CHXHCNVN, vừa có tư cách pháp nhân cũng như đầy đủ lý lẽ để kiện TQ, nhưng nhà nước này lại im lặng ?
Bởi vì, nhà nước này không thể kiện TQ.
Nhà nước CHXHCNVN có nghĩa vụ tôn trọng những kết ước, những tuyên bố về một vấn đề quốc tế... của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH. Trong đó có việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Trong thập niên 90, nhân có các vụ xung đột tại TS, nhiều học giả, chuyên gia về luật quốc tế đã viết những tác phẩm về tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và TQ về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phần lớn các học giả này nhìn nhận rằng VN đã phạm « Estoppel ». Theo họ, VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS trong một thời gian dài, đã hưởng lợi từ Trung Quốc, thì bây giờ không thể nói ngược lại.
Điều này đã thể hiện qua thái độ của nhà nước CHXHCNVN. Mặc dầu bị phía TQ lấn lướt (đến mức không thể chịu đựng) nhưng họ luôn chịu nhịn, không đưa vấn đề ra tòa án quốc tế.
Thái độ này dầu vậy hợp lý. Bởi vì, việc kiện tụng, nếu xảy ra, phía VN có rất ít hy vọng thắng. Nhưng nếu thua thì mất hết.
Mất Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển kinh tế độc quyền của VN sẽ bị thu hẹp, nếu không nói là mất cả Biển Đông. TQ có đủ lý do để đặt các luật lệ cấm đánh cá, hay mở rộng vùng Nhận diện Phòng không trên khu vực các đảo này, tức bao trọn biển Đông. VN sẽ bị cô lập.
Nhưng nếu không làm gì hết, TQ cũng sẽ lần hồi thâu tóm các đảo TS, chiếm trọn Biển Đông.
Lối thoát cuối cùng cho VN là kế thừa di sản VNCH, thông qua phương pháp hòa giải quốc gia và dân chủ hóa chế độ.
Hòa giải quốc gia để kế thừa danh nghĩa VNCH. Dân chủ hóa chế độ để đoạn tuyệt với di sản VNDCCH. Từ đó VN mới có danh nghĩa để mà đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế.
Một khi đã kế thừa di sản VNCH, nhà nước VN mới sẽ xúc tiến việc kiện tụng. Nhưng không bắt đầu bằng kiện TQ (vì nước này không chấp nhận mọi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế). VN nên kiện Phi trước, vì nước này chiếm trái phép của VN các đảo Trường Sa. Kết quả vụ kiện này, nếu VN thắng (phần chắc) thì sẽ thắng lý ở Hoàng Sa. Dựa vào đó, VN làm « vốn » thương lượng với TQ nhằm phân định vùng biển và thềm lục địa chung quanh các đảo Hoàng Sa.
Trong khi việc dân chủ hóa chế độ còn phù hợp với ý định « thay đổi thể chế » của một vị lãnh đạo. Vấn đề là mọi người đặt quyền lợi đảng phái lên trên hay quyền lợi của đất nước lên trên ?
NGUỒN: Blog Truong Nhân Tuấn " Những Vấn Đề VN" https://nhantuantruong.blogspot.com/2014/01/hoang-sa-va-truong-sa-van-e-ke-thua.html
[i] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
[ii] Nguyen Duy Tan Joële, đã dẫn.
[iii] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page
[iv] Conrad G. Buhler, in State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr94-103…sdd, tr 107.
[v] Nguyen Duy Tan Joële, đã dẫn.
[vi] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr 107.
[vii] Conrad G. Buhler, sdd, tr. 87.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét