Powered By Blogger
NHỮNG CÁI TẾT OAI HÙNG NHẤT 
TRONG LỊCH SỬ CỦA VN 


Vua Quang Trung
Cứ mỗi độ Xuân về, Việt tộc chúng ta lại tràn ngập niềm vui và sức sống mạnh liệt, tưởng nhớ đến những mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789 với chiến thắng rực rỡ của Vua Quang Trung trước sức mạnh của quân Tàu Đại quân Tây Sơn do người anh hùng áo vải chỉ huy đã đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long - Đông Đô khỏi ách đô hộ của quân xâm lược nhà Thanh. Chính chiến thắng oanh liệt đó đã nói lên chiến công hiển hách của anh em nhà Tây Sơn và thiên tài quân sự của người anh hùng áo vải - Quang Trung. Trước ba quân, Quang Trung tuyên bố đanh thép thề sẽ đánh tan quân giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc:


“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”
(Quang Trung)
Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận ra rằng nước Nam là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào Thăng Long đúng với khí thế ấy.
Cuối tháng 10 năm Mẫu Tuất (1788); từ thành Quy Nhơn, nhận được tin cấp báo của Đô đốc Tuyết: “quân Thanh được sự cầu viện của Lê Chiêu Thống, với chiêu bài sang nước Nam để phò Lê, diệt Tây Sơn”. Nguyễn Huệ đã làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi truyền lệnh tiến quân ra Bắc.


Nguyễn Huệ đã làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân, lấy niên hiệu là Quang Trung,


Núi Bân (Bân Sơn) cao 43,92 mdiện tích 80.956 ; ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời nhà Nguyễn, núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà.
Đây là nơi Bắc Bình Vương Nguyễn Hu gấp rút cho lập đàn (Đàn Nam Giao Tây Sơn) để làm lễ tế cáo trời, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh xâm lược vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12năm 1788).
Ngày xuân năm Kỷ Dậu, 226 năm trước đây, nhà Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung, đã đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi Việt Nam .Cuộc chiến quyết định tại trận Ðống Ða đã đánh bại 200.000 quân Thanh, khiến Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, quên mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, quên luôn cả ấn tín cùng tàn quân chạy về Trung hoa. Cuộc chiến thắng này đã khiến vua Càn Long nhà Thanh phải kinh hãi từ bỏ mộng xâm chiếm Việt Nam, và Việt Nam chúng ta duy trì sự độc lập. Sau khi nhà Tây Sơn suy vong, triều đình nhà Nguyễn cố gắng che dấu những sự kiện về nhà Tây Sơn. Nhưng những chiến công của vua Quang Trung và nhà Tây Sơn vẫn được nhân gian truyền tụng, và là những trang sử rực rỡ trong lịch sử Việt Nam

Người anh hùng dân tộc trước khi xuất quân ra Thăng Long đã nói:

"
CHÚNG NÓ ( Quân nhà Thanh) SANG PHEN NẦY LÀ MUA CÁI CHẾT ĐÓ THÔI. TA RA CHUYẾN NẦY THÂN COI VIỆC QUÂN ĐÁNH GIỮ, ĐÃ ĐỊNH MẸO RỒI, ĐUỔI QUÂN TÀU VỀ CHẲNG QUA 10 NGÀY LÀ XONG".


Thật là hiếm có trong sử Việt, nước Đại Việt lúc nào củng là nước bé, bé hàng chục lần so về dân số lảnh thổ và vũ khí và quân đội; người anh hùng áo vải Tây Sơn đã bảo vệ sự vẹn toàn của đất tổ một cách kiêu hùng và đầy tự tin. Nếu đem so Quang Trung với những tên gọi là "đỉnh cao trí tuệ" thì chỉ còn có nước mắt lưng tròng và úp mặt vào tường mà thổn thức vì mối QUỐC SỈ đã vượt quá giới hạn cho phép của những nhà lảnh đạo của một quốc gia. Con cháu bác hù đã bị quân giặc bắc phương, thích chữ HÈN trên ngực, nên chúng đã không còn liêm sỉ gì nữa, cúi đầu để quốc phá gia vong vì nạn bành trướng đại hán trên khắp các lảnh vực từ Kinh tế, Văn Hoá, Chính Trị, Lảnh Thổ....Nhìn lại chiều dài của lịch sử, nước ta, bất cứ và thời đại nào củng bé nhỏ và thua kém rất nhiều mặt so với Bắc phương hàng chục hàng trăm lần. Nhưng chúng ta đã chiến thắng quân xâm lược hàng chục lần với nhiều trận đánh oanh liệt và để đời, ngoài ra còn để răn đe mộng bành trướng của nước lớn, nhờ thế có những lúc chúng ta có độc lập và hạnh phúc để dựng nước gần cả ngàn năm, làm đối phương phải chùn bước khi nghĩ đến mộng thôn tính Việt Nam chúng ta. Sức mạnh để chiến thắng kẻ thù là từ "ĐỘ DÀY TINH THẦN YÊU NƯỚC CỦA VIỆT TỘC", độ dày đó thoát đi từ ý thức hệ Rồng Tiên, từ truyền trống dựng nước của tổ tiên, từ ĐẠO DÂN TỘC, từ VIỆT TÍNH, VIỆT TÌNH được hun đúc bởi hồn thiêng sông núi nước nam. 
CÔNG NGHIỆP GIỬ NƯỚC CỦA VUA QUANG TRUNG

Trước năm 1975, mỗi dịp Tết âm lịch, văn gia và dân chúng miền nam thường làm lễ kỷ niệm chiến thắng Tết Kỷ Dậu (31/1/1789) của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792). Đây là một trong những võ công vệ quốc lịch sử của dân tộc Việt chống lại âm mưu thôn tính của bắc phương từ ngày giành được độc lập năm 939–sau khi Ngô Quyền (898-944) phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng (theo Nguyễn Trãi, còn gọi là sông Vân Cừ), khai sinh ra một vương quốc mới, tức Đại Việt (từ năm 1054) hay Việt Nam (từ năm 1804). (1)

Vua Quang Trung ( ảnh minh hoạ)
Võ công Kỷ Dậu lừng lẫy này–ngoài tư liệu Trung Hoa và quốc sử Lê-Nguyễn–còn có thêm tư liệu Pháp, qua các nhà truyền giáo ở Đại Việt hay Xiêm La, và tư liệu Lào-Thái Lan, giúp tái dựng một cách khá trung thực, khác hẳn mối bang giao Hán-Việt trước thế kỷ XVI. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống cần được điền vào hoặc sửa chữa lại trong tương lai. Lý do thứ nhất là trong khi viết ra những tài liệu tuyên truyền cho sự chính thống của họ Nguyễn (1802-1945), hay nhà Thanh (Qing, 1644-1912), sử quan Nguyễn và Thanh chỉ nhấn mạnh vào công đức của Nguyễn Chủng (Gia Long, 1802-1820) hay Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (Quainlong [Càn Long] tức Cao Tông, 1736-1796, TTH, 1796-1799). Trong khi đó, tài liệu truyền giáo Ki-tô hay “sử” Lào và Thái Lan nghiêng về phía Nguyễn Chủng–một chư hầu của Rama I. Mặc dù từ năm 1945, và nhất là từ thập niên 1970, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] đã cho lệnh viết lại về nhà Tây Sơn (1778-1802), mục tiêu chính trị giai đoạn thống trị, nên những cung văn về một cuộc cách mạng của nông dân dưới ngọn cờ đào trở nên thái quá: Anh em Tây Sơn không là nông dân thuần túy; họ sống bằng nghề “đổi trầu” hay “đổi Thượng” tức mua bán, trao đổi với sắc dân Thượng ở đầu nguồn sông Côn—có lẽ cùng nghề với những Châu Văn Tiếp v.. v.. Văn gia Trung Hoa —từ Bắc Kinh cũng như Đài Bắc—phản công bằng cách công bố những văn kiện ngoại giao giữa Tây Sơn và Hoằng Lịch, hạ thấp giá trị võ công vệ quốc Kỷ Dậu, cũng như biểu, sớ do nhóm Ngô Thì Nhiệm thảo ra, với giọng điệu “sự đại chi lễ” [phép nước nhỏ thờ nước lớn], như con với cha, môi với răng quen thuộc từ triều Đinh, Tiền Lê, tới họ Mạc, hay Lê-Trịnh. 
Bài khai bút đầu Xuân này muốn tóm lược lại những nét chính về võ công Kỷ Dậu, quan hệ ngoại giao Thanh-Tây Sơn trong hai năm 1789-1790 và sự đe dọa của Liên minh Nguyễn Chủng-Rama I-Giáo sĩ Ki-tô. Kết luận sơ khởi của chúng tôi là khó thể có việc Quang Trung–dưới tên Nguyễn Quang Bình–đã lên Bắc Bình dự lễ thượng thọ bát tuần (80) của Hoằng Lịch vào năm 1790 như văn gia Trung Hoa cả đoan. Tóm lại những gì mà Wikipedia và sách báo của cộng sản trong nước viết về thân thế và sự nghiệp của Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện tại đều đã bị sửa chửa vì mục tiêu chính trị. 

THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP VUA QUANG TRUNG



Toàn cảnh tượng đài Vua Quang Trung tại núi Bân-Huế

Nguyễn Huệ (chữ Hán: 阮惠; 1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế (光中皇帝), vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương (北平王), là vị hoàng đế  của nhà Tây Sơn (tại vị từ 1788 tới 1792). Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam trong cuộc nội chiến và cả khi chống giặc ngoại xâm. Do có nhiều công lao, Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam

Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai như nước phong kiến Chúa Trịnh ở phía bắc và Chúa Nguyễn ở phía nam. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La( Thái Lan) ở phía nam, của Đại Thanh (Trung Hoa) phía bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt.

Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng dõi Hồ Quý Ly. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.


Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình (光平),Văn Huệ (文惠) hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình hoặc Đức ông Tám
I. TRẬN ĐÁNH K DẬU (1789):
Cuộc xâm lăng của Tôn Sĩ Nghị vào cuối năm 1788, đầu năm 1789, cho đến nay, chỉ được ghi lại một cách sơ sài và thiếu nhất quán.

Quang Trung đại phá quân Thanh 1789 ( ảnh minh hoạ)
TỔNG SỐ QUÂN THANH THAM DỰ ?:
Tài liệu Thanh không nhắc đến tổng số quân thủy bộ tham dự cuộc xâm phạm này. Chỉ nói cho lệnh điều động quân Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quí Châu.
Ngày 15/11/1788 [20/10 Mậu Thân Thanh], Tôn Sĩ Nghị ra khỏi ải Trấn Nam. Mang quân thuộc bốn tỉnh Hoa Nam, chia làm hai  cánh tiến vào đất Bắc.
1. Cánh quân phía Đông, chia làm ba [3] mũi:
Mũi chủ lực do Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh ra cửa Trấn Nam, tiến vào Lạng Sơn, xuống Kinh Bắc, rồi Thăng Long.
 Mũi thứ hai do Sầm Nghi Đống, tri chi phủ Điền Châu, mang theo 2,000 quân Nùng tiến vào Cao Bằng, xuống Thái Nguyên.
 Mũi thứ ba, tiến từ Khâm Châu vào Quảng Ninh, Hải Dương.
2. Cánh quân Vân Nam phía tây, dưới quyền Đề đốc Ô Đại Kình, từ Mông Tự tiến vào Tuyên Quang, Việt Trì trên bờ sông Thao.
Lực lượng xung kích gồm 10,000 kị mã, do Hứa Thế Hanh chỉ huy, để bảo vệ Tôn Sĩ Nghị.
3. Ngoài ra, còn khoảng 10,000 quân bản xứ “phò Lê.” Một trong những nhiệm vụ chính là làm cầu phao cho quân Thanh qua sông. Và, trừng trị những người hợp tác với Tây Sơn, kể cả ba chú vua, bị chặt chân. 
4. Chính sử nhà Nguyễn, tức Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Đại Nam Thực Lục không ghi rõ số quân Thanh tiến vào Đại Việt, chỉ nói mù mờ [theo Thanh sử và Đại Thanh Thực Lục] rằng Sĩ Nghị điều động quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quí Châu; [và, quân Thanh bị chết, bị thương đến quá nửa dưới tay “giặc” Tây Sơn].  Sử quan Nguyễn phụ trách soạn bộ Đại Nam Liệt Truyện ghi tổng số quân Thanh lên tới “20 vạn” [200,000]. [“Nghị độc phụng chiếu xuất Lưỡng Quảng Vân Quí lượng lộ binh nhị thập vạn, phân vi lưỡng đạo.” 
Ai đó có thể hoài nghi con số “20 vạn” vì sử quan Việt hay phóng đại sự thực. [Giống như số phi cơ Mỹ bị CSVN bắn hạ (Phùng Thế Tài, 2001) hay “600,000” quân Trung Cộng tràn vào Bắc Việt trong Bài học 30 ngày của Đặng Tiểu Bình (17/2-19/3/1979) (chỉ có 320,000, theo một tư liệu Trung Cộng)]. 
Có thể sử quan Nguyễn đã dựa theo tài liệu tuyên truyền của cả nhà Tây Sơn lẫn nhà Thanh. Tây Sơn có thể đã nâng số quân Thanh lên 20 vạn để tự quảng cáo chiến thắng vĩ đại của mình. Nhà Thanh tuyên truyền rằng mang 20 hay 50 vạn quân xâm phạm Đại Việt để kinh động nhân tâm, hầu “thanh oai.”
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, trong tờ hịch của Tôn Sĩ Nghị phát ra trước khi xâm phạm Đại Việt, quân Thanh lên tới “50 vạn” [500,000]. (II, tr. 153) Con số này khó tin, vì nhà Thanh chủ trương “thanh viện” [đánh tiếng giúp] vua Lê hơn thực sự giao chiến với Tây Sơn–dù phía sau chủ trương “thanh viện” ấy là âm mưu chia nước ta làm hai vương quốc nhỏ, một giao cho họ Lê, một cho anh em Tây Sơn, rồi đồn trú quân ở chỗ hiểm yếu hầu thực sự chiếm đóng Đại Việt. 
5. Ngụy Nguyên (1794-1854), một học giả đời Thanh, trong bài “Càn Long Chinh vũ An Nam ký,” của tập tài liệu tuyên truyền Thành Vũ Ký (1842) —nhằm khích động tinh thần quân sĩ Thanh giữa cuộc chiến tranh nha phiến (1834 [1839]-1842) —ghi rằng riêng cánh quân Tôn Sĩ Nghị từ Lạng Sơn kéo xuống Hà Nội có 10,000 người, giữ 2,000 ở lại Lạng Sơn, lấy 8,000 làm tiên phong kéo thẳng xuống Hà Nội. Đề đốc Vân Nam Ô Đại Kình đem 8,000 quân theo đường qua cửa Mã Bạch, vượt sông Chúc, vào cõi Giao Chỉ (Tuyên Quang), theo đường cũ của Mộc Thạnh nhà Minh năm 1407. Thái thú Sầm Nghi Đống mang hơn 2,000 lính Nùng từ chi phủ Điền Châu, tiến vào Cao Bằng, rồi Thái Nguyên, Ngoài ra, còn hai cánh quân Lưỡng Quảng khác, và một đạo thủy binh từ Quảng Đông đáp thuyền vào đất Hải Đông [Quảng Yên]. Nhưng “tiếng rằng đại binh có vài chục vạn.” Tổng đốc Vân Quí [Vân Nam-Quí Châu] là Phú Cương xin đi, nhưng Càn Long chỉ cho coi việc vận tải quân lương trong nội địa để tránh cảnh tranh chấp tướng lệnh với Tôn Sĩ Nghị. 
6. Tài liệu truyền giáo ghi tổng số quân Thanh ước lượng 280,000 người. Một nửa đóng quanh Hà Nội. Một nửa ở bên kia sông. Các làng mạc đánh trống ăn mừng. Giáo sĩ Pháp La Mothe ghi nhận:
Ngày 17[/1/1789], một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với Vua Chiêu Thống. . . . Viện binh Trung Hoa gồm độ 280,000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông... 
Con số “280,000” quân Thanh, do nguồn tin tình báo đại chúng của La Mothe, vượt trên ước lượng của sử quan Nguyễn. Con số này khó chính xác vì cả La Mothe lẫn hậu thế chẳng có cách nào kiểm chứng. Nhưng báo cáo của La Mothe hay Giám mục Jean la Bartette ở Ái Tử, Quảng Trị—người tạm thay Pierre Pigneau de Béhaine coi Giáo phận Đường Trong (Cohinchine)—khi về tới Macao, Pondichéry hay Paris, hẳn có phần đóng góp vào quyết định không tôn trọng hòa ước 28/11/1787 giữa Pháp và Pigneau de Béhaine (đại diện Nguyễn Ánh). 
7. Năm 1960, Tưởng Quân Chương, một tác giả Đài Loan, còn ghi Sĩ Nghị chỉ đưa “6,000 k mã” vào Hà Nội. Con số này quá thấp, do dụng ý nào đó. Trong cuộc phản công Tết Kỷ Dậu (1789), chỉ riêng ở Thăng Long quân Thanh chết hơn 7,000 tại trận. Cầu phao [nổi] bắc ngang sông Hồng [do quân sĩ Lê Duy Kỳ xây dựng] bị sập, khiến khoảng 3,000 người chết đuối, nước sông bị nghẽn.  Các chi tiết trên cũng thấy trong Lê triều dã sử, hay Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Dĩ nhiên, lối diễn tả “người chết khiến nước sông bị nghẽn” là lối diễn tả ước lệ trong sử văn Trung Hoa, và các tác giả Việt có thể đã chỉ bắt chước.
Cách nào đi nữa, với lệnh chỉ được thắng, ngoài thời điểm tiến quân vào mùa Thu để giảm thiểu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, Tôn Sĩ Nghị không thể mang theo “6,000 kị mã,” tức tinh binh của nhà Thanh như Tưởng Quân Chương hoang tưởng. Chỉ cần chút kiến thức quân sự sơ đẳng cũng hiểu rằng khi xâm phạm một nước láng giềng, phải có lực lượng khả dĩ bảo đảm sẽ chiến thắng hoặc rút lui an toàn. Ví thử chỉ dùng “8,000” (hay “6,000 kị binh”, “600 kị binh,” nếu muốn) cần mang theo số biền binh gấp 5, 10, hay 20 lần con số kể trên hầu trấn giữ các vị trí chiếm đóng được. Đó là chưa kể công tác tiếp vận lương thực, vũ khí. Lực lượng 10,000 quân Lê và dân công, kể cả phụ nữ, có thể được trưng dụng, nhưng tư liệu Thanh và Việt im lặng về yếu tố cực kỳ quan trọng này.
Nên thêm, kế hoạch đánh cướp Việt Nam đã được đích thân Hoằng Lịch duyệt xét và phê chuẩn, nên từ việc tiếp vận quân lương tới điều động lực lượng, và ngay cả tuyên truyền đều được bàn định kỹ càng. Cánh quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh được bảo vệ khá kỹ: Quân Vân Nam từ Tuyên Quang xuống tới Việt Trì. Sầm Nghi Đống và đạo quân Nùng Quảng Tây tới Thái Nguyên. Thủy quân từ Khâm Châu kéo vào Quảng Yên, Hải Dương. Đó là chưa kể chi tiết Sĩ Nghị mang theo đại pháo, một loại vũ khí tương đối mới mẻ với chiến trường Á châu.
Như thế, tổng số quân Thanh đâu đó trong khoảng 20,000 tới 50,000, hoặc nhiều hơn. Sử quan Nguyễn có thể đã dựa theo tư liệu dã sử nhà Lê hay truyền khẩu sử, và sửa lại đôi chút. [Riêng học giả Trần Trọng Kim chỉ lập lại con số 200,000 (20 vạn) của sử Nguyễn một cách máy móc, khiến dễ gây ngộ nhận rằng 200,000 quân Thanh chỉ đóng ở kinh đô Thăng Long và vùng phụ cận].

II. CÁC THỜI ĐIỂM THIẾU CHÍNH XÁC:
Giống như bất cứ cuộc chiến vệ quốc nào của Việt Nam, vấn đề thời điểm thường có sự dị biệt giữa các tài liệu Hoa và Việt. Hai thế kỷ sau võ công lừng lẫy của Quang Trung (1788-1792)một kẻ thù không đội trời chung của họ Nguyễn và Trịnhvẫn còn tranh luận về ngày chết của Quang Trung hay những chi tiết về chiến dịch Xuân Kỷ Dậu.
Ngày quân Thanh tiến vào Thăng Long là một thí dụ. Khi đổi từ ngày âm lịch sang dương lịch, còn trở ngại về sự khác biệt giữa lịch Thanh, với lịch Đường Trong (của chúa Nguyễn), Đường Ngoài và Tây Sơn. (Chúng tôi dùng Lịch Vạn Niên của Lý Quí Ngưu, và so sánh một số ngày, tháng do các giáo sĩ ghi vào thế kỷ XX. Việc này giúp phát hiện sử quan Nguyễn đã sử dụng tư liệu Thanh khi viết về “Ngụy Tây.” Sự khác biệt giữa văn gia Lê và dã sử Nguyễn cũng xuất hiện khi ghi lại các biến cố trong giai đoạn 1773-1789).
1. Theo Tôn Sĩ Nghị, đại quân Thanh qua cửa Trấn Nam ngày 20/10 Mậu Thân lịch Thanh [15/11/1788]. và tới Hà Nội một tháng sau, ngày 20/11 Mậu Thân [15/12/1788]. Tài liệu Việt và Hội truyền giáo Ki-tô đưa ra những thời điểm khác.
2. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM] không ghi rõ ngày. Chỉ chép tháng 10 Mậu Thân [29/10-27/11/1788], Sĩ Nghị mang quân xâm phạm “An Nam.” Lê Duy Kỳ trở lại Thăng Long (Đông Kinh) trong dịp này, nhưng tháng 11 Mậu Thân [28/11-26/12/1788] mới được Sĩ Nghị phong vương. Đại Nam Thực Lục, ghi mơ hồ Lê Duy Kỳ (tức Chiêu Thống) khôi phục đô thành vào tháng 10 Mậu Thân [29/10-27/11/1788]. Đại Nam Liệt Truyện chép tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân tấn công quân Thanh tại Thị Cầu, nhưng thua to. Hỏa lực Thanh phá tan chiến thuyền Tây Sơn, khiến người chết vì súng đạn, người chết đuối. 
3. Ngày 16/12/1788 [21/11 Mậu Thân Thanh], Tôn Sĩ Nghị niêm yết sắc phong Lê Duy Kỳ của Hoằng Lịch.  Như thế, Nghị vào Thăng Long ngày 15/12/1788 [20/11 Mậu Thân], đúng như tài liệu Thanh. Tuy nhiên, các tác giả Liệt truyện không ghi rõ là lịch Thanh hay Việt. Nếu lịch Thanh, tương ứng với ngày 15/12/1788; lịch Việt, ngày 17/12/1788 như ghi trong Bách Khoa Từ Điển Quân Sự [BKTĐQS] ấn bản 1996.
4. Tài liệu truyền giáo ghi ngày 17/1/1789:
Theo các giáo sĩ Pháp thì khoảng một tháng sau ngày vượt biên giới, “ngày 17 [tháng 1/1789, tức 22/12 Mậu Thân Việt, 24/12 Mậu Thân Thanh], một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với Vua Chiêu Thống....” 
5. Dã sử không chính xác.
5.1 Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí [HLNTC], Sĩ Nghị vào Hà Nội ngày 8/12/1788 [11/11 Mậu Thân]. Hôm sau, [9/12] Nghị phong vương cho Duy Kỳ. (II:165-66)
[Có lẽ không đúng. Đây chỉ là thời điểm quân Thanh đang tiến đến sông Thị Cầu, chuẩn bị qua sông. Đả bại Phan Lân.
5.2 Lại có tin Nghị tới Hà Nội ngày 16/11/1788 [19/10 Mậu Thân]. Có Lê Chiêu Thống theo.
[Chi tiết này có lẽ không đúng. Theo tài liệu Thanh, ngày 15/11/1788 [20/10 Mậu Thân Thanh], Sĩ Nghị mới ra khỏi Trấn Nam Quan.
5.3 Một dã sử nhà Thanh ghi tiền quân Thanh tới sông Thị Cầu (bến Đáp Cầu) ngày 10/12/1788 [15/11 Mậu Thân Thanh]. Cho lệnh quân Lê bắc cầu phao qua sông. Đêm 11-12/12 [16-17/11 Mậu Thân Thanh], quân Tây Sơn tấn công nhưng thất bại. Quân Thanh giết cả 423 tù binh. Dọc đường tiến quân về Hà Nội, giết thêm 115 người khác) 

III. CUỘC PHẢN CÔNG CỦA QUANG TRUNG:

Quang Trung tiến quân ra bắc

Sơ đồ hành quân của quân Tây Sơn

Cuộc phản công của Nguyễn Huệ tiến hành trên ba lãnh vực: chính trị, quân sự và ngoại giao.

A. CHÍNH TRỊ:
Như trong biểu Tôn Sĩ Nghị trình lên Hoàng Lịch, “chính nghĩa” xâm lăng Đại Việt hay “An Nam” là lời xin giúp đỡ của mẹ con Lê Duy Kỳmột cơ hội bằng vàng.
Mặc dù năm 1786 Nguyễn Huệ đưa Lê Duy Kỳ lên ngôi sau khi diệt họ Trịnh, nhưng những biến cố trong hai năm kế tiếptừ việc đòi đất Nghệ An không thành, tham vọng phục hưng nghiệp chúa của họ Trịnh, tham vọng của Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi đến chuyến ra bắc dẹp Chỉnh của Võ Văn Nhậm (hay Sĩ), con rể Thái Đức Nguyễn Nhạc cuối năm 1787, đầu năm 1788khiến Duy Kỳ phải bỏ kinh thành chạy đi khắp nơi tị nạn.
Trong hai tháng kế tiếp, các cựu thần nhà Lê, kể cả một số Hoàng thân ở Thanh Hóa và Hoàng đệ Duy Chí ở Thái Nguyên dấy binh chống Tây Sơn. Thổ hào Thái Nguyên và Tuyên Quang đều hưởng ứng. Tháng 4-5/1788, từ Lạng Giang, Duy Kỳ xuống hịch chống Tây Sơn. Nhân dịp này, Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ hai, diệt Võ Văn Nhậm. Vì không thuyết phục được các Hoàng thân tôn mình làm vua, Nguyễn Huệ đặt anh vợ là Lê Duy Cận làm Giám quốc, Đại Tư Mã Ngô Văn Sở làm trấn phủ.
Giống như hầu hết các nhà cầm quyền bị thua cuộc nào, mẹ con Duy Kỳ cùng các thuộc hạ tìm cách cầu viện nhà Thanh. Nguyên trước đó, Lê Duy Kỳ sai bọn Trần Danh Ân và Lê Duy Đản mang thư sang Nam Kinh xin cầu viện nhưng không thành công. Tháng 8/1788 [Tháng 7 Mậu Thân], mẹ Duy Kỳ chạy lên Cao Bằng, sai đốc đồng Nguyễn Huy Tú đem thư sang Long Bằng [Long Châu và Bằng Tường] xin cầu viện. Bị quân Tây Sơn truy kích, bọn Nguyễn Huy Túc, Hoàng Ích Hiểu, Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống đưa Hoàng Thái hậu chạy qua ải Thủy Khẩu, sang Long Châu. Rồi kéo nhau đến Nam Ninh, khóc lóc thảm thiết trước Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh và Tôn Sĩ Nghị, Tổng đốc Lưỡng Quảngngười chịu trách nhiệm việc ngoại giao với Nam Man di và Tây phương. Vì Quảng Châu là hải cảng duy nhất các thuyền buôn ngoại quốc tới “thông hiếu,” Sĩ Nghị trên thực tế là người phụ trách ngoại giao, và gọi tôn lên là “Phó vương.”
Tôn Vĩnh Thanh không muốn can thiệp. Chiến công phá Xiêm (1785), diệt Trịnh (1786) của Nguyễn Huệ và chủ trương ôn hòa khiến Vĩnh Thanh e ngại. Nhưng Sĩ Nghị lại muốn nhân cơ hội mở rộng ảnh hưởng. Nguyễn Chủng và các nhà truyền giáo phần nào đóng góp vào quyết định của Sĩ Nghị. Từ mùa Thu 1787, khai thác viêc anh em Tây Sơn bất hòa, gây cuộc tương tàn, Chủng bí mật rời Krung-thêp về miền nam, mang theo lê dương đủ quốc tịch, tái chiếm Sài Gòn (Gia Định thành). Chủng cũng liên minh với Xiêm và Lào, dự trù mở thêm mặt trận phía tây, tấn công vào Thuận Hóa hay Nghiã [Nghệ] An. Nanthasen (1781-1795), vua Viêng Chăn [Vientiane], và em là Inthavong hay Chao In [Chiêu Ấn] (1795-1804) công khai chống Tây Sơn. Nguyễn Chủng còn gửi người tới mua chuộc nhà Thanhnói rõ nội tình Tây Sơn và tự nguyện giúp đỡ quân lương nếu Sĩ Nghị tấn công An Nam. Bởi thế, Sĩ Nghị cho gọi bọn Lê Quýnh tới tra hỏi tình hình, rồi sai binh bị đạo Tả Giang (Tô Châu) đưa mẹ Duy Kỳ sang Nam Ninh chăm sóc, và dâng biểu lên Hoằng Lịch xin cứu giúp Duy Kỳ, vì tổ tiên đã cống lễ cả 300 năm. Hoằng Lịch bàn với Nội các đại học sĩ Hòa Khôn, và đồng ý cho Sĩ Nghị sử dụng lực lượng từ Quảng Tây can thiệp, giúp Duy Kỳ tái chiếm ngôi vua. Tiếp đó, truyền dụ cho Sĩ Nghị ra hịch cho dân Việt về ý định “phò Lê.” Sĩ Nghị xin phép dùng một hòn đá ném hai chim, giúp đưa Duy Kỳ lên ngôi ở Hà Nội, rồi chia quân đóng giữ miền bắc, và tùy theo diễn biến áp lực Nguyễn Huệ phải chấp nhận cắt đất xin hàng. Tôn Vĩnh Thanh không đồng ý, nói nên chờ đợi cho Tây Sơn và Lê tranh hùng, sau đó sẽ quyết định (theo chiến lược tọa sơn quan hổ đấu). Nhưng dù đã gần 80 tuổi, Hoằng Lịch vẫn nuôi tham vọng mở rộng thánh đức, chấp thuận đề nghị của Sĩ Nghị, truyền lệnh:
“Viện quân nên từ từ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cử họp nghĩa binh tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với [Nguyễn Huệ] thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta đến, ai chẳng giúp sức. [Nguyễn Huệ] tất phải tháo lui.”
Vĩnh Thanh bèn cáo ốm xin nghỉ, phó mặc cho Sĩ Nghị tổ chức và điều động binh mã Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quí Châu đưa Duy Kỳ về nước. 
Điều cả Sĩ Nghị lẫn Hoằng Lịch sai lầm là uy thế của nhà Lê đã phá sản trong dân chúng. Sau hơn 200 năm thủ vai hình nhân giát vàng của chúa Trịnh, dòng giõi Lê Lợi chỉ còn sự ủng hộ của một thiểu số tham vọng tự xưng trung thần. Sau khi Nghị sai Lê Quýnh cùng Nguyễn Quốc Đống mang mật thư về trao cho Duy Kỳ chuẩn bị đón Thanh binh và ấn vàng An Nam Quốc Vương ở Hà Nội, nhóm cố vấn của Nguyễn Huệ khuyên nên nhân cơ hội nhà Thanh can thiệp, đi tìm cho mình sự chính thống hay thiên mệnh mớidù chỉ là một bản sắc phong cùng con ấn An Nam Quốc Vương bằng bạc.

B. QUÂN SỰ:
Ngày 4/11/1788 [6/10 Mậu Thân], từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ viết thư cho Ngô Văn Sở [không ghi ngày], dặn dò chiến thuật phòng thủ. Khi quân Thanh vừa vượt qua biên giới, Sở cùng Giám quốc Lê Duy Cận lui giữ Thanh Hóa. Đêm 11-12/12/1788 [16-17/11 Mậu Thân Thanh], Phan Văn Lân thua trận Thị Cầu, thiệt hại khá nặng. Ngày 12/12, quân Thanh qua sông. Ba ngày sau, ngày 15/12/1788 [20/11 Mậu Thân Thanh], Sĩ Nghị vào tới Hà Nội. Chia quân một nửa đóng quanh Hà Nội. Một nửa ở bên kia sông. Ngày 16/12 [21/11 Mậu Thân Thanh], Sĩ Nghị niêm yết sắc phong Duy Kỳ của Càn Long. Trù tính sau khi ăn Tết xong sẽ tấn công Tây Sơn.
Trong khi đó, Duy Kỳ và thuộc hạ ra tay đền ơn, báo oán. Mổ bụng đàn bà có thai với quan tướng Tây Sơn. Chặt chân ba chú vua. Từ Nam Ninh về tới thủ đô, thấy hành động của Duy Kỳ, Hoàng thái hậu phải than lên: “Thôi diệt vong đến nơi rồi.” 
Ngày 22/12/1788 [25/11 Mậu Thân], tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ tự xưng Hoàng đế. Lấy đế hiệu Quang Trung. Ngay trong ngày, mang quân ra bắc.
Ngày 26 hay 27/12/1788 [29/11 hay1/12 Mậu Thân], Quang Trung tới Nghệ An. Đóng quân ở đây hơn 10 ngày. Lấy thêm 80,000 quân Nghệ An và Thanh Hoa. Cứ 3 đinh lấy 1 lính. Quân Thuận-Quảng chia làm bốn [4] doanh, tiền hậu, tả hữu. Tân binh Nghệ An làm trung quân. Gồm hơn 100,000 quân, voi chiến vài trăm thớt. Duyệt đại binh trước trấn dinh, rồi kéo ra bắc. 
Theo Liệt Truyện, ngày 15/1/1789 [20/12 Mậu Thân Việt], Quang Trung tới núi Tam Điệp, ranh giới Thanh Hóa và Ninh Bình. Vua cho lệnh ăn Tết trước, rồi hẹn ngày 7 tháng Giêng [1/2/1789] sẽ ăn Tết ở Đông đô. (1752-1831). 
Ngày 16/1/1789 [23/12 Mậu Thân Thanh], quân Thanh được tin Quang Trung ra tới Thanh Hóa, cho lệnh chuẩn bị chiến đấu.
Đại quân Tây Sơn chia làm ba mũi tiến về Hà Nội. Đại Tư Mã Sở và Nội hầu Lân chỉ huy mũi tiên phong. Hố Hổ Hầu cùng đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đem hậu quân và thủy sư vượt biển tiến về phía sông Lục Đầu. Đô đốc Tuyết chỉ huy tuyến Hải Dương. Đại đô đốc Lộc tiến đánh Lạng Giang, Phượng Giang, Yên Thế, nhằm chặn đường rút của quân giặc. Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem Hữu quân và voi ngựa tăng cường. Đô đốc Mưu xuyên qua huyện Chương Đức, tiến đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì để tấn công ngang hông quân Điền Châu. Đô đốc Bảo dẫn voi và quân đánh làng Đại Áng huyện Thanh Trì. Từ Thăng Long đến lũy Ngọc Hồi, quân Thanh đắp đồn, đặt bảo chi chít, trí đại bác trên lũy, lại đặt ngầm địa lôi chung quanh.
Tài điều binh khiển tướng của Quang Trung cộng thêm khí thế bách chiến bách thắng của Tây Sơn khiến quân Lêkhâu yếu nhất của liên quân Thanh-Lêchưa đánh đã tan. Ngày 30 tháng Chạp Mậu Thân [25/1/1789, lịch Việt, hay 23/1, lịch Thanh], quân Lê ở Sơn Nam tự động rã ngũ. Quang Trung thúc quân vượt sông Giản Thủy trong đêm trừ tịch.  Đúng Nguyên đán Kỷ Dậu [26/1/1789, lịch Việt, hoặc 24/1/1789 theo lịch Thanh] Quang Trung ra tới Hà Hồi, thuộc huyện Thường Phúc, phủ Thường Tín, Hà Đông. Một số đơn vị từ núi kéo xuống phối hợp đại quân tấn công quân Thanh.



Mồng 3 Tết [28 hay 26/1/1789], Ngô Văn Sở tiến đánh một số vị trí quân Thanh ở Hà Đông. Quân Tây Sơn tiến sát thành Hà Nội. Trong đêm dùng loa kêu gọi. Vài vạn người về hàng.  Hôm sau, mồng 4 Tết [29 hay 27/1/1789], quân Thanh phản công. Tử thủ được các vị trí ở Hà Đông. Trong đêm 4-5/1 [30-31 hay 28-29/1/1789], quân Tây Sơn tổng tấn công.
Đích thân Quang Trung cưỡi voi tham chiến. Sau, bỏ voi, cưỡi ngựa. Nguồn tin các giáo sĩ ghi:
“Theo lời đồn, ông đeo hai đoản đao và chạy ngang dọc chém đầu nhiều sĩ quan và binh lính Thanh, làm nhiều người chết dưới tay ông. Ông luôn miệng hô xung phong và lúc nào cũng ở tuyến đầu.”
Theo các sử quan Nguyễn, quân Tây Sơn tiến sát đồn Ngọc Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như mưa. [Nguyễn Huệ] cho lệnh binh lính núp vào ván gỗ để xung trận, còn mình cưỡi voi đốc chiến ở phía sau.... Hứa Thế Hanh, Tổng binh Trương Sĩ Long và Thượng Duy Thăng chết tại Hà Hồi và Ngọc Hồi. Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử ở Đống Đa. Sĩ Nghị vội vã rút quân về hướng bắc. Cầu sập, khoảng 3,000 binh Thanh chết đuối. Khoảng 7,000 người khác bỏ xác tại trận.
Ngày ấy, Huệ xua quân nhập thành, áo chiến bào biến thành màu đen vì thuốc súng. [Thị nhật Huệ khu binh nhập thành, sở phục chiến bào biến vi tiêu hắc sắc, giai hỏa dược khí dã]. (Ngụy Tây, tr.34B)
Mùng 5 tết vua Quang Trung tiến vào Thăng Long 
được dân đón tiếp trọng thể

Người nhà Thanh [ở gần biên giới] chấn động dữ dội, già trẻ giắt dìu nhau chạy về hướng bắc. Cả trăm dặm tuyệt không có người và khói [bếp]. [Thanh nhân đại chấn tự quan dĩ bắc lão ấu phù huề bôn tẩu, số bách lý tuyệt vô nhân yên]. 
Ngày 2/2/1789 [9/1 Kỷ Dậu Thanh], Sĩ Nghị mới chạy thoát vào Trấn Nam Quan. Duy Kỳ [Chiêu Thống] cùng Hoàng thái hậu chạy theo. Tới Trấn Nam Quan, Duy Kỳ muốn ở lại kháng chiến, nhưng Sĩ Nghị khuyên sang thành Quế Lâm, chờ quân tăng viện. Duy Kỳ bèn cùng 25 người khác vượt biên qua Trung Hoa.


Tôn sĩ Nghị bõ chạy về Tàu
Quang Trung và các cố vấn không đuổi tận, diệt tuyệt. Quang Trung trở lại Huế, chuyển chiến lợi phẩm về miền Trung bằng đường bộ; gồm đại bác, tiền bạc, v.. v... Cử Quang Thùy coi Bắc thành, Võ Văn Dũng phụ tá; Quang Bàn giữ Thanh Hoa; Nguyễn Văn Duệ trấn thủ Nghĩa An, nơi vua đang xây dựng một thành đất gọi là Trung Đô.

Giám Mục La Mothe nhận định:
“Ông ta [Quang Trung] đã cho đem về Phú Xuân và về tân Kinh đô [Nghĩa An] của ông bằng đường bộ chứ không phải bằng đường thủy . . . . hai, ba nghìn cỗ đại bác và súng thần công, không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với số tiền bạc và tất cả những vật liệu quý giá bắt được của quân Trung Hoa. Đó, kết quả của cuộc chinh phạt ấy là như vậy, nó đem đến đau đớn và nhục nhã cho quân Trung Hoa và lợi lộc cùng vẻ vang cho quân Tây Sơn...
“Tiếm Vương dũng cảm và tàn bạo, chúa tể [Bắc Đường Trong] và [Đường Ngoài] không mấy lo sợ quân đội gồm người Ấn Độ, Xiêm, Trung Hoa và Bồ Đào Nha... Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ vì nể Tân Attila này vì ngài vừa mới phong ông làm vua [Đường Ngoài] qua trung gian một vị đại sứ, quên cả việc 50,000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm Vương năm ngoái chỉ trong một trận giao chiến thôi.” 
Những điều Trần Trọng Kim hay Hoa Bằng viết về Quang Trung và nhà Tây Sơn hầu như trích dẫn nguyên văn từ sử Nguyễn. Nói cách khác, Trần Trọng Kim có thể ghét nhà Nguyễn (trước ngày lên làm Thủ tướng vào tháng 4/1945), nhưng việc ca tụng vua Quang Trung chẳng dính nhập gì đến sự yêu ghét của riêng ông.

C. NGOẠI GIAO:

Từ ngày 14/1/1789 [21/12 Mậu Thân Thanh], có tin Hoằng Lịch bỗng đổi ý, sai chạy ngựa trạm qua Hà Nội, lệnh cho Sĩ Nghị triệt thoái. Tuy nhiên quá chậm. Lệnh chưa tới nơi, Nghị đã thua trận. 
Hoằng Lịch bèn sai Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng; và dự định đưa quân qua phục thù. Kinh nghiệm “thông hiếu” gần tám thế kỷ khiến cố vấn của Quang Trung khuyên vua lùi một bước, sai sứ xin cầu hòa.
Theo Liệt Truyện, trong khi đánh nhau với nhà Thanh, Tây Sơn bắt được sắc thư của Hoằng Lịch [Qainlong] gửi Sĩ Nghị về kế hoạch đánh chiếm Đại Việt. Sau đó, có Thang Hùng Nghiệp, binh bị đạo Giang Tô [Tả], viết thư khuyên Quang Trung nên vào chầu nhà Thanh, vì Hoằng Lịch không có chủ tâm lấy lại nước Việt. Dù coi khinh nhà Thanh, Quang Trung vẫn muốn tránh việc binh đao, nên sai tướng là Hố Hổ Hầu mang biểu qua xin sắc phong. Trong tờ biểu, qui trách tội lỗi cho Sĩ Nghị. Thang Nghiệp không dám chuyển đạt. Quang Trung cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích phụ trách việc bang giao, rồi rút quân về Huế. 
Sau Phúc Khang An đến Việt [Quảng] Tây, ngỏ ý muốn giảng hòa, đưa thư chiêu dụ. Tháng 2-3/1789 [tháng 2 Kỷ Dậu], Thì Nhiệm bí mật gặp Khang An. Tháng 4-5/1789 [4 Kỷ Dậu], Khang An tới Quế Lâm. Tuyên bố trời nóng nực phải tạm ngưng việc binh, và yêu cầu Duy Kỳ gióc tóc theo nhà Thanh để chuẩn bị về đánh Tây Sơn. Sau đó, Khang An mật tâu Duy Kỳ đã xin nhập Thanh, tiếp sứ Tây Sơn. 
Mùa Hè 1789, Nguyễn Huệ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng Vũ Huy Tấn mang vàng bạc qua xin yết kiến Hoằng Lịch. Đọc được tờ sớ do Phúc Khang An giúp phần soạn thảo, Hoằng Lịch vui lắm, đồng ý phong vương cho Quang Trung–lúc này đã đổi tên thành Nguyễn Quang Bình, có lẽ do thuộc hạ Hoằng Lịch đề nghị; hẹn năm sau khi Quang Bình tới Yên Kinh mừng thượng thọ 80 tuổi, sẽ chính thức phong làm An Nam Quốc Vương. Nhưng sau đó, đồng ý cho sứ đoàn Nguyễn Quang Hiển mang về sắc phong từ ngày 1/12/1789 [15/10 Kỷ Dậu]. 
Quang Trung gửi một phái đoàn lên Yên Kinh tạ ơn, hứa sẽ qua dự lễ thượng thọ bát tuần của Hoằng Lịch vào tháng 8 Canh Tuất [9-10/1790]. Đồng thời, gửi một phái đoàn khác qua nạp cống lễ theo định kỳ. Trong biểu lên Hoằng Lịch, Thì Nhiệm viết:
Lượng trên như trời đất cha mẹ, khó thể hình dung, [Thiên địa phụ mẫu chi vi lượng, cố mạc đức nhi hình dung],
Phận nhỏ mọn như hạt bụi, bọt nước, biết cách nào báo đáp. [Trần nhưỡng quyên tích chi chí vi, thật hà giai nhi báo xứng!]
Ngày 15 tháng 10 [1/12/1789], kính cẩn lãnh thụ ngự thi và sắc thư, từ nay chăn giắt đất Nam Giao, thần đời đời con cháu, tuân theo thánh huấn, mãi mãi phụng sự nhà Đại Thanh. [vu thập nguyệt thập ngũ nhật kính cẩn lĩnh thụ ngự thi sắc thư, tòng thử ti mục Nam Giao, thần thế thế tử tôn, khác tuân thánh huấn, vĩnh phụng Đại Thanh].
Theo tài liệu Thanh, năm sau, Nguyễn Quang Bình y hẹn, dẫn Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Văn Lỗ, Đỗ Văn Công cùng đi. Phúc Khang An và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh tháp tùng.
Theo tài liệu Nguyễn, thấy Quang Trung nhiều lần tìm cách trì hoãn, Khang An đưa ra kế gửi một người giả giống Quang Trung lên Yên Kinh. Tháng 4-5/1790 [Tháng Ba Canh Tuất], Nguyễn Huệ cho người cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị, nét mặt giống mình đi sứ Yên Kinh. vào chầu Hoằng Lịch. Có Ngô Văn Sở và Phan Huy Ích đi theo. Hoằng Lịch phong Huệ làm An Nam Quốc Vương. 
Biết hay không biết sự thực, Hoằng Lịch vẫn ra sức trình diễn sự hiện diện lịch sử của phái bộ “Nguyễn Quang Bình” ở Nhiệt Hà, như vào chầu ra mắt, làm lễ bảo tất [ôm đầu gối]. Hoằng Lịch còn đích thân viết bốn chữ đại tự “củng cực qui thành” [nghĩa là “chầu vào ngôi sao Bắc đẩu, hết lòng qui phục] và một đôi câu đối. Sau đó, ban một bài thơ có câu nhắc nhở với ý chê trách tục cống tượng người vàng từ thời nhà Lê. Trước khi về nước, còn cho gọi đến bên giường, an ủi, vỗ về, tăng một chữ Phúc cùng nhiều quà cáp.
Một câu hỏi không thể không đặt ra là nên tin vào sử sách Thanh hay tài liệu Việt? Có ít nhất ba lý do để tin sử quan Nguyễn hơn Thanh.
Thứ nhất, sử quan Nguyễn khó có lý do để bịa đặt ra chi tiết Khang An bày mưu cho Quang Trung đưa người giả mạo lên Yên Kinh. Quốc sử Nguyễn đã nhiều đời ra sức lăng nhục và trừng trị anh em, con cháu nhà Tây Sơn. Minh Mạng còn chứng tỏ bản chất man rợ qua việc dùng đầu lâu anh em Tây Sơn làm đồ đựng nước tiểu. Tới đời Thiệu Trị, khóa nhốt vào ngục thất. Quốc sử thì dành cả một quyển Ngụy Tây để nêu rõ tội trạng Tây Sơn. Đầu thập niên 1830, Minh Mạng còn sai Nguyễn Tri Phương đi truy lùng con cháu Nguyễn Nhạc để tiêu diệt.
Thứ hai, có luật bất thành văn trong giới lãnh đạo Việtkhởi đi từ kinh nghiệm nhà Zhao [Triệu]: “không đích thân vào triều cống.” Vua Trần đã hai lần chấp nhận cảnh binh lửa thay vì “vào chầu” Qublai Khan [Hốt Tất Liệt]. Quang Trung cũng đang ở vào thế mạnh, nuôi hùng tâm khôi phục tất cả những đất đai đã mất.
Thứ ba, năm 1790 là năm cực kỳ nghiêm trọng cho nhà Tây Sơn. Liên minh Nguyễn Chủng-Rama I thế lực đang lên. Bí mật rời Xiêm ngày 13/8/1887, Nguyễn Chủng đã chiếm lại Sài Gòn từ ngày 7/9/1788 [8/8 Mậu Thân]. 
Tư lệnh Tây Sơn miền nam là Phạm Văn Sâm rút về Ba Thắc, rồi đầu hàng. Thế lực Chủng ngày một gia tăng, nhất là hải quân. Lính Lê dương Pháp của Pigneau de Béhaine lục tục kéo đến, ngày một đông đảo. Các giáo sĩ Âu Châu, từ nam chí bắc, đều phò “ông Chủng,” chống Tây Sơn.
Đồng thời, Krungthêp vẫn chưa nguôi ngoai mối hận bại trận năm 1785, sử dụng vua Viêng Chăn Nanthasen (1781-1795) cùng em là Inthavong hay Chao In mở mặt trận phía tây đối diện Nghệ An và Thuận Hóa. 
Năm 1790, Quang Trung sai đốc trấn Nghệ An Trần Quang Diệu làm tổng quản, cùng đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5,000 quân theo thượng đạo đi đánh Viêng Chăn. Tháng 7-8/1790 [Tháng 6 Canh Tuất], lấy được Trấn Ninh, Trịnh Cao, Qui Hợp. Tháng 11-12/1790 [Tháng 10 Canh Tuất], tiến đến Vạn Tượng, sát biên giới Xiêm La. Chém Phan Dung, Phan Siêu, rồi kéo quân về Bảo Lạc. Quang Trung sai Vũ Vĩnh Thành, Trần Ngọc Thị qua nhà Thanh báo tin. Tiếng là kính thuận, nhưng thực ra để khoe. Là một danh tướng, thật khó nghĩ Quang Trung phó mặc cho Trần Quang Diệu đơn độc tiến hành chiến dịch có tầm mức an nguy cho cả vương quốc, đi Yên Kinh dự yến, họa thơ. Hơn nữa, theo tài liệu Thái, truyền giáo và nhà Nguyễn, Quang Diệu còn nhận nhiệm vụ chuẩn bị chiến dịch sử dụng đường thượng đạo Trường Sơn đánh Sài Gòn. 
Mặc dù tình báo của Nguyễn Chủng, Xiêm La và các nhà truyền giáo Pháp tiết lộ tin Quang Trung giả, nhưng Hoằng Lịch và triều Thanhdo ảnh hưởng Khang An và Hòa Khônchỉ quay mặt làm ngơ. Thân ái mời Quang Trung giả đến bên giường an ủi, ban tặng chữ “Phúc” cùng nhiều lễ vật trước khi về nước. Sau đó, thỏa mãn mọi yêu cầu của “Quang Trung,” từ mở chợ thông thương ở cửa ải Bình Thủy, Cao Bằng, cửa ải Du Thôn ở trấn Lạng Sơn. Lập nhà hàng ở Nam Ninh. Quang Trung còn định đòi lại sáu [6] châu ở Hưng Hóa, ba [3] động ở Tuyên Quang đã bị nhà Thanh tằm thực vào cuối đời Lê-Trịnh. Sau khi tổng đốc Lưỡng Quảng nhiều lần từ chối, Quang Trung móc nối với giặc biển Tề Ngôi, Thiên Địa Hội, chuẩn bị binh thuyền nhòm ngó Lưỡng Quảng. Lại thực hiện thẻ “tín bài” để kiểm soát dân đinh.
Năm 1792, Quang Trung còn cho soạn biểu xin cầu hôn công chúa nhà Thanh. Tuy nhiên, bị bạo bệnh đột ngột từ trần, nên dấu việc này đi.
Điểm đáng chú ý là tài liệu truyền giáo im lặng về chuyến đi này, trong khi cung cấp nhiều thông tin về mặt trận Ai Laodù chỉ là những nguồn tin loại “dit-on”“hearsay” quen thuộc. Bởi thế, cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, khó thể bác việc Quang Trung giả đã tới Yên Kinh và Nhiệt Hà năm 1790.

Nếu tạm quên hai chữ “giảo quyệt” sử quan Nguyễn đã để lại cho đời sau những nét phác họa khá chính xác về Quang Trung: một đại tướng thiện chiến, thông minh, tiếng nói như chuông, mắt sáng quắc, uy dũng rất mực. Và nếu bỏ đi những chữ “ngụy” đằng trước tên Nguyễn Huệ, hay các đại tướng nhà Tây Sơn, người đọc có cảm tưởng sử quan Nguyễn đã không dấu vẻ khâm phục tài điều binh, khiển tướng của Quang Trung:
Năm 1775, khi mới 23 tuổi, đã đánh phá được Phú Yên, được Hoàng Ngũ Phúc phong làm Tây sơn hiệu Tiền phong Tướng quân. Năm 1786, khi đã 34 tuổi, đánh bại 30,000 quân Trịnh của Phạm Ngô Cầu, lấy được Phú xuân. Giết hết quân Trịnh . . . .
. . . . Trịnh Khải chạy lên Sơn Tây bị dân phản nghịch lừa bắt đưa đến nạp cho quân Tây Sơn. Dọc đường, Khải cứa cổ tự tử. Nguyễn Huệ vỗ thây Trịnh Khải, nói: “Đáng tiếc một hảo Nam tử. Lúc đầu nếu sớm đón rước mà đầu hàng thì hẳn không mất phú quí. Sao lại khổ tự hủy mạng?” [Khả tích hảo Nam tử. Đương sơ nhược tảo tảo nghinh hàng, đương bất thất phú quí, hà khổ tự tương mệnh.]
Rồi dùng nghi lễ bậc vương tử mà an táng Trịnh Khải.
Những khiếm khuyết nêu trên về nhà Tây Sơn, các vua Nguyễn chịu trách nhiệm không nhỏ. Chỉ vì lòng hận thùnói theo vua Gia Long, “chín đời báo thù mới là đại nghĩa”họ đã hủy diệt hầu hết di tích của nhà Tây Sơn, khiến những chiến công như đại phá quân Xiêm và quân Thanh bị mai một. Ngay đến Tự Đức, người tự hào là sử gia chân chính theo khuôn khổ Khổng giáo, cũng không cho các sử quan nghiên cứu rõ ràng hơn về nhà Tây Sơn. Thật đáng tiếc!
Nhưng các vua Nguyễn không phải là những người đầu tiên hoặc cuối cùng đã có hành động mà thế giới ngày nay lên án là “cultural barbarism” [sự mọi rợ văn hóa]. Thực ra, họ cũng chỉ bắt chước những Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa, quan tướng nhà Minh vào đầu thế kỷ XV ở Đại Việt, hay vua quan Roma sau thế kỷ thứ IIItức hủy diệt bất cứ chứng tích nào đi ngược lại sự “chính thống” hay “hồng ân” của những kẻ cầm quyền. Những cuộc thảm sát dân Do Thái, hạ ngục và đốt sống các trí thức lỗi lạc xảy ra hàng sáu bảy thế kỷ trước ngày chủ thuyết “Cộng Sản” chào đời. Giáo Hoàng John Paul XXII, rồi Benedicto XVI đã nhiều lần công khai xin lỗi nạn nhân, nhưng quá chậm và quá ít.
Sau năm 1975, chế độ “Cộng Sản” Việtcùng với các bạn đồng chí Khmer Đỏcũng ra công đốt sách vở “ngụy, và phản động,” viết lại lịch sử. Những ngôn từ thô bỉ đầu đường xó chợnhư chó săn, bán mình cho thực dân, tư bảnđược gay gắt phát ra cho bất cứ ai có thể là đối thủ, hay không chấp nhận thứ chủ nghĩa Trung Cổ hoang tưởng của Karl Marx và đệ tử về “cộng đồng nguyên thủy công hữu”–nhưng bị dịch ra một cách thiếu chính xác thành “cộng sản” [communism]. Tuy nhiên giấy nào gói được lửa? Một sử gia trong nước cho biết không có việc xe tăng húc nghiêng cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975, mà cảnh này đã được trình diễn quay phim về sau! Nguồn Chính Đạo Houston, 16/2-6/10/2010 Xuân-Thu Canh Dần © 2010, by Chieu N. Vu. All Rights Reserved


Sơ đồ hành quân của quân Tây Sơn giải phóng Thăng Long

Lược đồ tiến quân của quân Tây Sơn về Thăng Long

IV. CHIẾN THUẬT ĐÁNH NGỌC HỒI CỦA VUA QUNG TRUNG
 Đồn Ngọc Hồi là một vị trí then chốt của quân Thanh ở phía Nam Thăng Long ,nơi địch tập trung phần lớn binh lính tinh nhuệ, các tướng lĩnh cao cấp như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng. . .là lá chắn bảo vệ cửa ngõ phía nam kinh thành.  Xung quanh đồn được đặt địa lôi, cắm chông sắt dày đặc. Trong đồn được bố trí một hỏa lực rất mạnh. Rạng sáng mồng 5 tháng Giêng, Quang Trung bắt đầu công phá đồn Ngọc Hồi. Đoàn quân dàn trận hình chữ “nhất” tiến vào. Hỏa lực địch bắn ra như mưa. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, để tránh thương vong cho quân ta, Quang Trung đã cho ghép các tấm ván lại dùng rơm dấp nước phủ kín ở bên ngoài, cho quân lính vác đi trước làm lá chắn che đạn. Sách này viết: “Vua Quang Trung lại truyền cho lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép ba ván thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. 

Vua Quang trung đánh đồn Ngọc Hồi

Đoạn kén 10 lính khỏe mạnh, cứ 10 người khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn. hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ nhất; vua Quang Trung cưỡi voi đốc thúc, mờ sang ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh liền dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát, trời bỗng trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự hại mình. Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm giáo ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi ,bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết” ( Hoàng Lê nhất thống chí. NXB Văn học. 2005 tr359, 360).

CUỘC CÁCH MẠNG TÔN GIÁO 

TRONG THỜI QUANG TRUNG

Trong thời gian Vua Quang Trung trị vì, tôn giáo củng là một quốc sách thuộc hàng đầu của ông. Ông chủ trương một cuộc cách mạng thiên niên kỷ về tôn giáo đ ể trong sạch hoá hàng ngũ Phật Giáo.
Vua Quang Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, mà những người đi tu hành thì ngu dốt, không mấy người thấu đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa kẻ ngu dân, ông xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ mỗi huyện một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt về làm ăn. Ý vua Quang Trung muốn rằng nơi thờ phượng, chùa Phật phải thật tôn nghiêm, mà những người đi tu hành thì phải là những bậc chân tu, thấu hiểu thật thâm sâu về Phật pháp. Tóm lại là trọng dụng những bậc cao tăng, khổ hạnh, quán triệt thật sâu đạo pháp, ai đáp ứng được nhu cầu đó thì mới được bước vào chùa.
Cuộc cách mạng tôn giáo của vua Quang Trung là duy nhất trong sử Việt được ghi nhận, nó mang ý nghĩa cải cách tận gốc rể từ thượng tầng tới hạ tầng của Phật Giáo.



ảnh minh hoạ

Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ. Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan. Ông can đảm đập bỏ những chùa ở cấp thôn, làng để xây duy nhất một ngôi chùa lớn ở cấp xã, huyện, đồng thời chọn những vị cao tâng về trụ trì và chấn hưng Phật giáo; còn những người thiếu đạo hạnh không đủ phẩm chất của một người tu đạo, những kẻ lưu manh lợi dụng chiếc áo cà sa, những người lười biếng núp dưới chùa đều phải hoàn tục.
ảnh minh hoạ

 CÁC VŨ KHÍ CỦA QUÂN TÂY SƠN

1. Voi lửa Tây Sơn



Ảnh minh hoạ voi lửa của Quang Trung

Đất Việt là nơi có nhiều voi sinh sống, và người Việt đã sớm sử dụng loài voi như một loại vũ khí, một loại "binh chủng tác chiến" đặc biệt. Khi hành quân, voi là phương tiện vận chuyển, chuyên chở quân nhu, vũ khí, lương thảo. Trong chiến đấu, voi trở thành chiến cụ đầy uy lực, có thể dùng vòi, ngà và chân tiêu diệt địch, húc vào các nhóm lính địch, húc đổ cng thành, tả xung hữu đột, dày xéo, dẫm nát quân địch, phá rào lũy mở đường tiến cho bộ binh. Với ưu thế của mình, các đội quân voi chiến tiên phong đi đầu luôn trở thành nỗi kinh hoàng của quân xâm lược bắc phương. 
Những người lính trên mình voi có lợi thế về độ cao, tầm quan sát tốt, tác chiến thuận lợi với các mũi giáo dài và các loại vũ khí tầm xa như cung, nỏ, súng. Đặc biệt, voi còn là khắc tinh của kỵ binh bởi loài ngựa có nỗi sợ bản năng với loài voi. 


Ảnh minh hoạ, một chiến binh cầm giáo dài ra trận
Tài sử dụng voi trận của người Việt đã gắn liền với hình ảnh "cưỡi voi đánh giặc" của Bà Trưng, Bà Triệu. Từ thời Hai Bà Trưng cho đến thời Quang Trung, một cuộc cách mạng đã diễn ra trong nghệ thuật sử dụng voi trận của người Việt. Với thiên tài quân sự của mình, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã biến những chú voi trở thành một lực lượng hỏa lực cơ động, mang theo đại bác và hỏa pháo trên lưng, thực hiện nhiệm vụ đột kích với sức công phá đáng sợ. Đó là những thay đổi vượt bậc so với các đội tượng binh thời trước. Voi trận còn được sử dụng trong một số quân đội quốc gia khác, nhưng "voi lửa" thời Tây Sơn có thể nói là một loại vũ khí "không giống ai". 

Trận đánh điển hình cho tài dùng voi của Nguyễn Huệ là trận Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789, khi 100 voi lửa của quân Tây Sơn đã làm những chú ngựa trong đội kỵ binh của quân Thanh khiếp đảm, dẫm đạp lên nhau chạy loạn, ngựa đạp chết lính, tháo chạy tán loạn. Kết quả là quân Thanh thua to, bao nhiêu tên xâm lược đã bị voi Việt và cả ngựa Tàu đạp tan thây. 

Trong các thời kỳ trước, voi trận thường được sử dụng làm lực lượng đột kích mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc trong mỗi mũi tiến công, mang bản chất một lực lượng phụ trợ chiến thuật. Phải đến thời Tây Sơn, thiên tài quân sự Quang Trung - Nguyễn Huệ đã khai thác, tận dụng ưu điểm của loài voi, rồi voi chiến mới được sử dụng tập trung số lượng lớn có trọng tâm trọng điểm cụ thể, biến voi chiến trở thành một lực lượng tấn công chiến lược. 

Đặc biệt, Nguyễn Huệ đã biến voi thành những "cỗ xe tăng" có sức mạnh áp đảo, trang bị đại bác và hỏa pháo trên lưng. Trên lưng mỗi quân voi có ba, bốn người lính chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy quân địch. 



Tượng binh Tây Sơn trong lúc lâm trận ( ảnh minh hoạ)

Voi chiến không phải là một vũ khí hoàn hảo. Nó có khuyết điểm là sợ lửa và tiếng nổ lớn. Trong chiến tranh Minh - Việt lần thứ nhất, quân Minh đã khôn khéo lợi dụng pháo, lửa rồi đeo mặt nạ sư tử vào cho các ngựa chiến để hù dọa voi trận nhà Hồ, làm cho voi quân Hồ chạy ngược vào trong trận làm vỡ trận quân Hồ. 

Cho thấy việc nghĩa quân Tây Sơn huấn luyện được những con voi chịu đựng được môi trường chiến đấu chung quanh đầy tiếng nổ và khói lửa như vậy càng thể hiện trình độ quân sự rất đáng nể của các quản tượng, các chuyên viên huấn luyện voi, và các tướng lĩnh Tây Sơn. 

Với những trang bị như vậy, voi chiến của đội quân áo vải cờ đào Tây Sơn đã biến thành một lực lượng hỏa lực cơ động có sức mạnh chi
ến đấu kinh khiếp. Đội quân "voi lửa" của vua Quang Trung, người thiên tài quân sự cả đời cầm quân không hề biết thua trận là gì, đã hội đủ cả 3 yếu tố chiến thuật: Cơ động, đột kích và hỏa lực. Đây thật sự là một cuộc cách mạng voi chiến so với các thời kỳ trước đó. 

Năm 1789, trong chiến dịch 
đánh ra Thăng Long, 100 voi trận Tây Sơn do nữ đô đốc Bùi Thị Xuân chỉ huy đã đánh tan đội kỵ binh đông đảo của Tôn Sĩ Nghị, góp phần làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của quân đội Tây Sơn và dân tộc Việt Nam, giải phóng Bắc Hà, xóa bỏ ranh giới ở sông Gianh chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài, Bắc Hà - Nam Hà, thống nhất hai Đàng. 

Bên cạnh việc trang bị hỏa lực cho voi, một yếu tố khác cũng làm tăng cường đáng kể sức mạnh và tốc độ hành quân của đội voi chiến Tây Sơn là sự ra đời của những chiến hạm khổng lồ Định Quốc được chế tạo theo mô hình phương Tây thời bấy giờ. Với khả năng chở được voi, những chiến hạm khổng lồ này khiến cuộc hành quân xuyên Việt của đội voi diễn ra thần tốc và dễ dàng hơn rất nhiều bằng đường biển. Góp phần thêu dệt thêm những huyền thoại vào các chiến dịch hành quân siêu tốc của quân Tây Sơn. 


 2.Súng hỏa hổ 

Ảnh minh họa 
Ngoài "xe tăng voi lửa" kể trên, binh lính Tây Sơn còn được trang bị một loại vũ khí cá nhân là Hỏa hổ. Hỏa hổ là một loại vũ khí hình ống, một loại súng phun lửa có thể biến địch thành "cây đuốc sống". Khi lâm trận, trong ống Hỏa hổ bắn nhựa thông ra, trúng phải đâu là lập tức bốc cháy. Loại vũ khí đặc biệt này được trang bị cho cả quân chủng lục quân và thủy quân của nhà Tây Sơn. 

Theo sách binh pháp "Binh thư yếu lược" tương truyền của Trần Hưng Đạo, cách chế là như sau: Dùng một chiếc ống (bằng sắt hoặc bằng tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp thuốc thành nhiều nấc. Nấc đầu tiên là liều thuốc bắn, giã nén chặt dày khoảng 4cm, sau đó tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giã nén chặt, dày khoảng 12cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm các vật liệu sát thương, dày khoảng 4cm. Phần ống còn lại nạp dầy thuốc phun. Gặp địch, người dùng Hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chỉa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác. 


Sách binh pháp "Hổ trướng khu cơ" của quân sư Đào Duy Từ (mưu sĩ hàng đầu được các chúa Nguyễn trọng dụng nhất trong cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh) ghi: Hỏa hổ chính là hỏa tiễn, vì lửa cháy dữ dội, nên gọi là hỏa hổ. Trong Quốc sử nhà Nguyễn đời Minh Mạng còn gọi Hỏa hổ là hỏa phún đồng. 

Sau khi quan sát, suy luận, phân tích, các nhà nghiên cứu cho rằng loại vũ khí này được cải tiến từ các hỏa thương và hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại, một loại vũ khí chiến lược. 

Điều ấn tượng là vua Quang Trung đã chế tạo ra súng Hỏa hổ bằng những ống tre, trở thành một vũ khí cá nhân có tính sát thương cao. Nếu đem so với những khẩu súng hỏa đồng của quân chúa Trịnh hay súng pháo lớn cần hàng chục người khiêng của nhà Minh, nhà Thanh thì sáng tạo này của Quang Trung đã bỏ xa những phe kia cả về trình độ công nghệ lẫn tác dụng thực chiến. 


Hỏa thương là một loại súng cầm tay sơ khai của bộ binh.

Đó là một ống nhỏ có bầu đựng thuốc súng và nòng súng, 
khai hỏa bằng cách châm ngòi dẫn. 


Hỏa đồng có cách hoạt động giống hỏa thương, 

nhưng có kích thước lớn hơn và được đặt trên bệ cố định. 
Nó sát thương bằng cách phun lửa chứ không dùng đạn. 

Quân Thanh khi chuẩn bị kéo sang xâm lăng nước ta, trong 8 điều quân luật do Tôn Sĩ Nghị và các tướng biên soạn, có điều thứ 5 để chống lại súng Hỏa hổ như sau: "Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng ống phun lửa làm lợi khí, gọi là hỏa hổ. Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó để đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải rút lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi, so với súng ống của ta thì họ kém rất ra. Hiện nay, ta chế sẵn vài trăm lá chắn da trâu sống. Nếu gặp Hỏa hổ của người Nam phun lửa, thì quân tay cầm lá chắn ấy đỡ lửa một tay cầm dao chém bừa chắc rằng chúng bỏ chạy tan tác". 


Một số tài liệu cũng cho biết, trong bộ chiến, vua Quang Trung thường dùng voi lửa phá tan kỵ binh địch không còn manh giáp, và dùng súng Hỏa hổ gây rối loạn bộ binh địch, rồi xông lên giáp chiến xáp lá cà. 
Hỏa cầu được nhà quân sự Đào Duy Từ sáng chế 
dựa trên kỹ thuật hỏa khí phương Tây. 

Ngoài súng Hỏa hổ, quân Tây Sơn còn dùng Hỏa cầu (Lưu hoàng) để phụ trợ cho Hỏa hổ. Hỏa cầu là loại trái nổ dùng để ném, có tác dụng và hiệu quả gần như lựu đạn. Tùy vào chất nạp mà trái nổ có thể tạo ra khói độc, nhựa cháy, hoặc mảnh vụn sát thương. 

Hỏa hổ và hỏa cầu, hai loại vũ khí cá nhân rất "bá đạo" của quân Tây Sơn làm khiếp đảm các thế lực thù trong giặc ngoài, góp phần vào trận đại thắng quân Thanh xuân Kỷ Dậu 1789, đem lại độc lập cho Đại Việt.

Hỏa hổ ( ảnh giửa) 

Sau khi chiến thắng, chiếm được ngai vàng và lên ngôi, vua Gia Long cho dẹp hết các loại vũ khí có thể gợi nhớ đến biểu tượng Tây Sơn, phổ biến và sử dụng các trang bị, vũ khí của châu Âu. Cuộc cách mạng về công nghệ, công nghiệp, hỏa khí ở châu Âu càng làm cho súng Hỏa hổ, Hỏa cầu, và cả mẫu súng thần công của Hồ Nguyên Trừng mà quân chúa Trịnh hay dùng đều trở thành "đồ cổ". 
Tuy nhiên, súng Hỏa hổ vẫn còn ý nghĩa lịch sử, mỗi khi nghe tới nó khiến người ta không khỏi bồi hồi nhớ tới những chiến công xưa vô cùng hiển hách của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đội quân áo vải cờ đào Tây Sơn, và các tướng lĩnh Tây Sơn lừng danh một thuở. 


Một bức họa của người Trung Hoa về trận đánh: Quân Thanh 
vượt sông Thọ Xương (sông Thương)
trên đường tiến về Thăng Long, phía xa là quân Tây Sơn đang tháo chạy.

TRỐNG TÂY SƠN

HÀO KHÍ VIỆT TỘC TRONG VIỆC GIỮ NƯỚC 

Nếu tiếng TRỐNG MÊ LINH là tiếng trống đòi độc lập, thì tiếng TRỐNG TÂY SƠN là tiếng trống chiến thắng quân xâm lược nhà THANH vào mồng 5 Tết, năm Kỷ Dậu 1789.

Giặc Tàu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống dám ai đương

Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh

Mây tạnh mù tan trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
"Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta" 
(Ngô Ngọc Du)

Thời Tây Sơn http://www.vanhoaquangtrung.com/tieusu/tieusuquangtrung.htm, có Phan Huy Ích nổi danh văn học, và đứng bên Ngô Thì Nhậm, ông còn nổi danh là một nhà ngoại giao nữa. Nhưng, ít người để ý là Phan Huy Ích cũng đã từng cầm quân. Trước khi Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Mãn Thanh, Phan Huy Ích đã từng cầm quân đi bắt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngày chuẩn bị, ông đem theo một trống trận, đục thủng một đầu. Ðịnh để nhốt Chỉnh vào trống giải về Kinh đô.

Hoàng Lê Nhất thống chí có chép sự kiện này, nhưng không cho biết chi tiết là cái trống đó lớn chừng nào. Ta lại đành phải đoán là lớn lắm. Ðủ to để giam Chỉnh vào đó. Và sự kiện trên cũng cho ta biết trống trận không phải do Tây Sơn phát minh ra.

Nhưng trống trận Tây Sơn thì rõ là một nét văn hóa độc đáo của vùng Bình định, điểm xuất phát nghĩa quân, vào năm 1771. Theo lời kể của dân chúng Bình định, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đều là những người giỏi võ. Không chỉ giỏi về công phu và nghệ thuật, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc hệ thống hóa kiến thức về võ thuật tại địa phương. Nguyễn Lữ từng tổng kết kinh nghiệm võ thuật cùng việc theo dõi từng thế đá của gà chọi (Hùng Kê quyền), khẩu quyết được phổ thành một bài thơ cho dễ nhớ dễ tập. Cũng tại vùng Tây Sơn, binh lính Tây Sơn còn sử dụng trống trận trình bày nhạc võ (nhạc của võ nghệ, không phải nhạc dùng trong vũ múa) để khích động tinh thần ba quân. Tương truyền tiếng trống rất hùng tráng hừng hực hào khí Tây Sơn. Tiếng trống vang vọng hồn thiêng sông núi, là tiếng reo hò vang dội của trận địa, là những âm thanh rộn rã, reo vui.


Ảnh minh hoạ 17 trống trận Tây Sơn


Tiếng trống vang trên đất Tây Sơn (Bình Định) hoàn toàn không hề giống tiếng trống của bất cứ nơi đâu trên đất nước, và cũng chẳng nơi đâu trên thế giới này có được tiếng trống như vậy...
Với tiếng trống nầy Vua Quang Trung chưa một lần thua trận, đội quân của ông cũng chưa một lần phải lùi bước trước kẻ thù nào.https://www.youtube.com/watch?v=KIhQs523KTM
Trống Tây Sơn không hề lẫn trộn với bất cứ tiếng trống nào trên khắp năm châu, trống trận Tây Sơn là bản giao hưởng hùng tráng hừng hực hào khí Quang Trung và thấm đượm tinh thần thượng võ Tây Sơn.

Khi tiếng trống cất lên, lập tức không gian như vang vọng hồn thiêng sông núi. Nghe như rầm rập tiếng quân đi, voi thét; tiếng lướt gió, chạm nhau của binh khí; tiếng reo hò vang dội của ba quân. Và cả sự trầm lắng tưởng niệm vong hồn tử sĩ trước khi những thanh âm reo vui, rộn rã trong khúc khải hoàn ca chan hòa muôn phương. Thế trận thần tốc, táo bạo năm nào dường như đang hiện diện, rần rật chuyển lan trong từng mạch nhịp của người nghe. Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh, là lời động viên, cổ vũ ba quân mà còn là những đòn thế tâm công xoáy sâu, đánh thẳng vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi.

Về đất Tây Sơn, được nghe tiếng trống trận Tây Sơn, khách xa quê có cảm giác như trăm vạn hùng binh đang lớp lớp xông lên, nhưng trong tiếng trống vang rền đó lại ánh lên một triết lý thấm đẫm chất nhân văn của dân tộc: khoan hòa nhưng kiên quyết.
Nguyễn Huệ đã đánh tan 40 vạn quân Thanh bằng 10 vạn quân và 200 thớt voi. Một chủ tướng của quân xâm lược Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết nhiều đến nổi chất thành 13 gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. Theo Giáo sĩ De la Bissachère Quân Thanh bị giết khoảng 20.000 ngàn tên.

Tiếng TRỐNG TÂY SƠN của Nguyễn Huệ vang lên làm hiệu lệnh thúc quân, đánh tan một lực lượng gấp 3 lần quân Đại Việt. Là một quân cụ hổ trợ chiến thắng trong mỗi lần ra quân của nhà Tây Sơn.

QUANG TRUNG TRONG THƠ VĂN

Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca có đoạn nói về vua Quang Trung đại phá quân Thanh như sau:



Quân Thanh đã được Thăng long,

Một hai rằng thế là xong việc mình.

Dùng dằng chẳng chịu tiến binh,
Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang.
Ngụy Tây[48] nghe biết sơ phòng,
Giả điều tạ tội, quyết đường cất quân.
Dặm tràng nào có ai ngăn,
Thừa hư tiến bức đến gần Thăng long.
Trực khu đến lũy Nam đồng,
Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang?
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chém dứt, quân mình thác oan.
Ngẩn ngơ đến ải Lạng sơn,
Theo sau còn có quân quan mấy người.
Cầm tay Sĩ Nghị than giài,
Vì mình kiển bộ nên người luống công,
Nhẽ đâu lại giám bận lòng,
Xin về đất cũ để mong tái đồ.
Tôn công cũng có tiên trù,
Đã dâng một biểu xin cầu viện binh.
Zing Blog
Lễ mãn khoá 27 trường Võ Bị Đà Lạt có diển lại trận đánh Ngọc Hồi.

VĂN TẾ VUA QUANG TRUNG   
Kỷ Niệm 225 Năm Chiến Thắng Đống Đa
Hôm nay, ngày Mùng 10 tháng Giêng, tại San Jose, Cali, Mỹ quốc.
Đất tạm dung cỏ cây muôn thức, nuôi đời tị nạn sung túc biết dường bao.
Nơi cố hương dân chúng bốn phương, sống kiếp nô lệ đói nghèo sao kể xiết.                  
Nhìn về biển Đông nay sóng dậy can qua, Đảng Cộng sản dâng đất biển cho Trung cộng. Chạnh nhớ nước mình thuở bị Thanh triều xâm lược. Tây Sơn quyết tâm giữ vững sơn hà.
Nhớ đấng anh hùng xưa:
Thao lược có thừa.  
Kinh luân gồm đủ. 
Anh hùng quán sổ. 
Thông tuệ khác thường.     
Gặp buổi Trịnh Nguyễn phân tranh chia nhau cương vực, giềng mối rối ren đổ nát. Quan, Quân thì lộng quyền đục khoét tài nguyên, dân chúng lầm than cơ cực. 
Bắc giong vó ngựa, da hổ bọc giáo gươm. Nam trở vũ bào, mặt rồng soi dung sắc.         
Trừ tàn lừng lẫy bốn phương, mở bờ cõi lâu đời chưa thống nhất.                                   
Giữ trị sửa sang trăm việc, dựng cơ đồ dài hạn đã kinh bang.     
Cây muốn lặng. Gió chẳng ngừng 
Lợi dụng lời cầu xin của phường bán nước; quân Thanh đem binh xâm lấn cõi bờ. Đáp ứng lòng mong chờ từ dân trăm họ, Tây Sơn quyết ra tay diệt sói trừ lang. Giặc thế mạnh, binh đông, tướng dữ, 
Ta khí hùng, trí sáng, gan bền.                                                                  
Chỉ mười ngày đồn giặc đều tan, Chỉ mười ngày đồn giặc đều tan,
Vui hai Tết quân binh rạng rỡ.                                                                
Khúc khải hoàn vang dội khắp sơn xuyên,                                                      Hồn chiến sĩ khắc ghi tình non nước……”
Trong tiếng chiêng trống rền vang, nhạc bát âm réo rắc…Bài Văn tế kêu gọi lòng người hướng về đất nước đang bị nạn ngoại xâm giặc Tàu đến từ phương Bắc…
Sau phần tế lễ của các hội đồng dương, tiếp đến là phần tế lễ của đại diện Liên Hội Cựu Quân Nhân. T.S. Nguyễn Hồng Dũng đọc tiểu sử Vua Quang Trung, sau đó, Cựu ĐT Trần Thanh Điền, cựu Tr. T Đỗ Hữu Nhơn, Kỵ Binh Bùi Đắc Thư đại diện cho các hội đoàn Cựu Quân Nhân đăng đàn dâng hương lễ bái, và đọc Văn Tế. Trong khi tế lễ có các Cựu Quân Nhân Hải Quân trong bộ đại lễ màu trắng cầm kiếm chào kính, hai Quân Cảnh, và hai cựu quân nhân Thiết Giáp, Biệt Động Quân giúp lễ.
Văn Tế Quang Trung Đại Đế
(Cựu Quân Nhân đồng tế)
Thương ôi!
Tây Sơn non cảnh trời xanh thẳm
Sông Côn nước biếc người đợi trông
Bóng dáng Anh Hùng thân áo vải
Cờ điều chính nghĩa cứu non sông.
 Hôm nay Mùng 5 thánh Giêng
Kỷ niệm chiến thắng Đống Đa lịch sử
Chúng tôi, cựu Quân Nhân VNCH và đồng hương lưu vong viễn xứ
Kính cẩn nghiêng mình trước linh ảnh Đại đế Quang Trung.
Nhớ Linh xưa,
Áo vải xuất thân, khởi binh dẹp giặc;
Nam trừ giặc Xiêm, Bắc diệt giặc Thanh xâm lược
Đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh cứu nguy xã tắc
Mỗi đợt tiến quân kẻ thù tan tác
Trống Ngọc Hồi thay tiếng pháo mừng xuân
Tướng sĩ một lòng 
Trên dưới quyết tâm
Như vũ bão san bằng thành Khương Thượng
Sầm Nghi Đống cùng đường tự vẫn
Hứa Thế Hanh bỏ mình trong đám loạn quân
Dòng Nhị Hà nghẽn xác lũ giặc Thanh
Tôn Sĩ Nghị vắt chân lên đầu trốn chạy
Gò Đống Đa xác thù rơi chật bãi
Cờ Quang Trung phấp phới khắp Thăng Long
Triêu, triệu tấm lòng mở hội hoa đăng
Mừng chiến thắng, tổ quốc qua cơn tai ách!
Trang sử mới của giống nòi Hồng Lạc
Viết vinh danh chiến tích Bắc Bình Vương
Ngàn đời hậu thế ghi ơn. 
Nhưng nay,
Cả non sông đang dậy sóng căm hờn!
Giặc Hồ Cộng rước Hán quân cũng từ phương Bắc
Tiếp tay giặc xâm lăng nước nhà từng bước
Tội ác này Chiêu Thống xét thua xa
Bàn Giốc, Nam Quan, Hoàng Sa-Trường Sa, cả giang sơn tổ quốc
Chúng biến thành thuộc địa Hán giang!
Nước mất, muôn dân rên xiết bỡi lũ thái thú độc ác!
Toàn dân Việt vô cùng phẫn uất,
Quyết noi theo tinh thần Đại Đế Quang Trung
Diệt Cộng tham tàn, cứu nước cứu dân. 
Chúng tôi,
Những cựu Quân Nhân VNCH cùng đồng hương
Kính cẩn nghiêng mình trước Đại Đế Quang Trung linh hiển
Phù trợ Dân Việt theo chí tiền nhân
Lập lại chiến thắng Đống Đa giữa Thăng Long
Giải cứu giống nòi thoát khỏi cảnh lầm than
Xây dựng lại Việt Nam thắm tình Xuân Dân tộc 
Xin Đức Đại Đế Quang Trung độ trì chứng giám! 

Nhân dân VN 
Đồng tế!

Lăng Ba Vành, ẩn số về ngôi mộ cổ của Vua Quang Trung??


Lăng Ba Vành, ẩn số về ngôi mộ cổ của Vua Quang Trung
Hoàng đế Quang Trung là một thiên tài quân sự của Việt Nam, chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa của người đã đơợc ghi vào lịch sử. Tuy nhiên tới nay nơi an táng Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những ẩn số lớn của lịch sử Việt Nam. Nhiều giả thiết đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, trong đó ý kiến cho rằng lăng Ba Vành ở Huế là lăng mộ cổ của Vua Quang Trung, vị hoàng đế vĩ đại triều Tây Sơn ?

Nguyễn Huệ, còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế, vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn sau Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Sinh: Năm 1753, tại Bình Định,  Mất: Năm 1792, tại Phú Xuân
Nơi an táng Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những ẩn số lớn của lịch sử Việt Nam. Quy mô to lớn khác thường, những yếu tố kiến trúc đặc biệt cùng sự trừng phạt thảm khốc và lãng quên trong suốt triều Nguyễn khiến nhiều người tin rằng lăng Ba Vành chính là nơi an nghỉ của Hoàng đế Quang Trung.
Nơi an táng Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn 
Huệ là một trong những ẩn số lớn của lịch sử Việt Nam . Nhiều giả thiết đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, trong đó ý kiến cho rằng lăng Ba Vành ở Huế là lăng mộ vị hoàng đế vĩ đại triều Tây Sơn nhận được rất nhiều sự quan tâm.
Đây là một khu lăng mộ có quy mô lớn, với chiều dài khoảng 60m, rộng 40m, nằm trong khu rừng thông thuộc địa phần làng Cư Chánh, ngoại thành của Huế. Lăng gồm 3 vòng thành tròn ghép lại. Vòng ngoài cùng có tường đá cao và rất dày, hai đầu là hai trụ cửa lớn.
Vòng thành thứ hai có hai đầu cong ngược ra ngoài với phù điêu đắp nổi. Mô típ trang trí trên phù điêu không giống với bất cứ lăng mộ nào của nhà Nguyễn.
Vòng thành trong cùng ôm nấm mộ có hình mai rùa - loại mộ dành cho bậc công thần, đế vương theo quan niệm thời xưa.
Nấm mộ có vách rất dày, bị bạt góc trái theo kiểu chém “tả đao” dành cho tử tù thời phong kiến, để kéo quan tài ra khỏi mộ.
Bia đá trước mộ bị chặt gãy và vứt chỏng chơ dưới đất, những năm gần đây mới được dựng lại một cách tạm bợ.
Các dòng chữ trên bia đã bị đục phá một cách tàn bạo và không thể đọc được.
Ngoài ra, giới nghiên cứu còn khẳng định khu lăng mộ tồn tại những dấu tích của một nơi an táng bậc đế vương như nhà bia, cổng tam quan, vườn lăng...
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Trần Viết Điền khẳng định gạch dùng để xây mộ là loại gạch Tây Sơn, sau khi đối chiếu với loại gạch ở gò Viên Khâu, đàn Phương Trạch, Học cung Long Hồ... các công trình xây cất dưới triều đại Tây Sơn.
Quy mô to lớn khác thường, những yếu tố kiến trúc đặc biệt cùng sự trừng phạt thảm khốc và lãng quên trong suốt triều Nguyễn khiến nhiều người tin rằng lăng Ba Vành chính là nơi an nghỉ của Hoàng đế Quang Trung.
Theo sử sách, Hoàng đế Quang Trung băng hà ở thành Phú Xuân (Huế) năm 1792. Triều đại Tây Sơn sụp đổ 10 năm sau đó. Sau khi làm chủ Phú Xuân, vua Gia Long đã quật phá mồ mả của kẻ tử thù năm xưa trong cuộc trả thù tàn nhẫn nhằm vào triều Tây Sơn...

Di tích Bến sông Trường Trầu, cây me, giếng nước cổ :

Ai đến với Phú Phong, nhẹ bước trên cầu Kiên Mỹ bắc qua con sông Kôn nổi tiếng để đến với Bảo tàng Quang Trung, cũng có thể cảm nhận được linh khí núi sông của vùng đất từng sinh ra những anh hùng áo vải Tây Sơn.  Không phải ngẫu nhiên Bảo tàng Quang Trung bắt đầu từ bến Trường Trầu bên dòng sông Kôn và kết thúc ở Điện thờ Tây Sơn tam kiệt. Càng xúc động hơn khi được đứng dưới bóng me cổ thụ từng che mát anh em Nguyễn Huệ giờ vẫn xanh um và được uống những ngụm nước ngọt mát, trong vắt, kéo lên từ cái giếng cổ của gia đình Nguyễn Huệ. Giếng nước được ghép bằng đá ong, (không xây bằng vữa hồ) là nguồn nước nuôi dưỡng ba anh em nhà Tây Sơn trưởng thành.
Giếng cổ trong khu di tích.
Cây me là nơi Nguyễn Nhạc họp bàn việc nước với các nghĩa sĩ và cũng là nơi nhân dân bí mật thờ ba anh em nhà Tây Sơn sau những năm đình bị đốt cháy. Cây Me ở Bảo tàng Quang Trung - Tây Sơn được công nhận là cây Di sản Việt Nam vào ngày 28 -11- 2011. Đây là cổ thụ Bình Định đầu tiên được công nhận Cây Di sản, ngoài giá trị lâu năm, cảnh quan, cây me này có ý nghĩa đặc biệt về mặt văn hóa, lịch sử; được xem là biểu tượng cho sức sống, sự trường tồn của phong trào Tây Sơn trong lòng dân tộc.
Cây me cổ thụ trong di tích.
Bảo tàng Quang Trung:
Với 11.057 tư liệu hiện vật gốc và hàng trăm hiện vật phục chế về Nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung được coi đang sở hữu một kho tư liệu, hiện vật giàu có, phong phú nhất về một thời đại lừng lẫy và vị vua kiệt xuất nhất, được yêu mến trong lịch sử dân tộc. Đây là thành quả một quá trình nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ, nhân viên Bảo tàng trong mấy chục năm qua, kể từ ngày thành lập 1977. Bước chân của họ đã đi khắp đất nước, ra cả nước ngoài để tập hợp về đây tất cả những tư liệu hiện vật liên quan đến phong trào Tây Sơn và vua Quang Trung. Ta có thể gặp những báu vật như chiếc trống da voi của đồng bào Tây Nguyên tham gia phong trào Tây Sơn, ấn tín, các sắc phong, gia phả của nhiều văn thần, võ tướng; chuông đồng, súng thần công, ấn tín, tiền đồng Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, tấm bia mộ tổ dòng họ Tây Sơn…
Với chiến thăng mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) đã khắc ghi và tô đậm thêm trang sử oai hùng của dân tộc ta trong việc chống ngoại xâm để giữ nước. Và phải được nhắc nhở hàng năm để giáo dục nhân dân về tinh thần yêu nước, bảo vệ bờ cỏi trước các thế lực ngoại xâm. Không như đám bán nước Ba Đình hiện nay, quỳ mọp dưới chân thiên triều để xin trọn đời làm kiếp thái thú. Lãnh đạo đất nước hôm nay chỉ là những người chỉ biết bảo vệ đảng không màng đến số phận của tổ quốc và dân tộc trước nạn Hán hoá từng bước.
Các tài liệu và hình ảnh được tác giả sưu tầm trên Internet
Lý Bích Thuỷ
ngày đầu xuân khai bút 21/2/2015 tức mồng ba tháng giêng năm Ất Mùi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét