Powered By Blogger

 NHÂN VẬT CHỦ CHỐT ÍT ĐƯỢC BIẾT TỚI TRONG VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG  - Micheline Lessard

Lời ngỏ: Tác giả bài nghiên cứu này là bà Micheline Lessard, giáo sư duy nhất giảng dạy về lịch sử Việt Nam ở ĐH Ottawa, Canada, chủ yếu nghiên cứu những khía cạnh khuất lấp của lịch sử Việt Nam thời kỳ thuộc địa, đặc biệt là về những lớp người yếu thế, không có tiếng nói. Quá trình viết sử vẫn được thống trị bởi nam giới và quan điểm của họ, chính vì vậy, phụ nữ thường bị lãng quên, kể cả khi họ rất tài năng và đem lại những đóng góp quan trọng trong lịch sử. Dịch giả bài viết là Hảo Linh.

Ở Quận 1, Sài Gòn, có hai con đường giao nhau mang tên Cô Giang và Nguyễn Thái Học, như là biểu tượng của sự gặp gỡ giữa hai nhà yêu nước đã chung sức và chung cả cuộc đời để đưa Việt Nam thoát khỏi chế độ thuộc địa. Hai người đều là những thành viên hoạt động sôi nổi và ảnh hưởng lớn trong Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và đều chết một cách bi kịch, dưới hai hoàn cảnh khác nhau vào tháng 6 năm 1930, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Báy. Di sản của họ được lưu giữ trong không gian công cộng của hầu hết các thành phố lớn, tên họ được đặt cho đường phố và trường học, như sự tri ân cho những gì họ hi sinh vì dân tộc. Dẫu vậy, vẫn có quá ít những gì viết về Nguyễn Thị Giang từ trước đến nay mặc dù những đóng góp và vai trò của bà trong VNQDĐ vô cùng quan trọng và to lớn. Thông thường, những câu chuyện về Nguyễn Thị Giang chỉ tập trung vào tình yêu giữa bà với Nguyễn Thái Học và sự hiên ngang của họ trước cái chết. Trong nhiều tài liệu để lại, bà luôn được khắc họa là người đi theo để được ở gần người mình yêu. Thường xuyên, những quan chức chính quyền thời thuộc địa thường giễu cợt về bà Giang là "người tình" của ông Học, bởi vậy mà hạ thấp vai trò của bà trong VNQDĐ và bôi nhọ “đạo đức” của bà. Việc xem xét một cách cẩn trọng những nguồn thông tin này là rất cần thiết để có thể hiểu một cách đầy đủ mức độ đóng góp của bà vào VNQDĐ cũng như vào phong trào chống thuộc địa nói chung.

Nguyễn Thị Giang sinh ra ở làng quê Bắc Giang vào năm 1906, trong một gia đình có ba người con gái và theo một vài nguồn tư liệu, cả ba người đều tham gia vào các phong trào dân tộc [1]. Nguyễn Thị Giang gặp Nguyễn Thái Học khi mới 22 tuổi khi ông mời bà gia nhập VNQDĐ. Người chị của bà, Nguyễn Thị Bắc cũng gia nhập [2]. Ban đầu, hai người phụ nữ trẻ chỉ chịu trách nhiệm “đối ngoại và tuyên truyền” [3]. Nhưng ngay sau đó, đảng nhận ra trí tuệ và năng lực của bà Giang và giao cho bà những trọng trách quan trọng hơn. Bên cạnh đó, Nguyễn Thái Học đủ tin tưởng Nguyễn Thị Giang để cho bà làm việc với những thông tin tuyệt mật [4]. Mặc dù các nhà sử học không tập trung vào công việc của bà Giang trong VNQDĐ, những tài liệu lưu trữ thể hiện rõ ràng rằng các quan chức thời thuộc địa Pháp hoàn toàn nhận thức được sự can thiệp sâu rộng của bà trong Đảng. Louis Marty, người sau đó làm chỉ huy trưởng của Sûreté Pháp (mật thám) tuyên bố với chính quyền thuộc địa rằng VNQDĐ đã xây dựng hẳn một “bộ phận” do nữ đảm nhiệm mà các thành viên trong đó đóng vai trò to lớn vào các hoạt động chống thuộc địa [5]. Marty thậm chí còn cho rằng “Hoạt động cách mạng của Giang còn vượt xa cả của Nguyễn Thái Học” [6].

Một trong những vai trò quan trọng của Nguyễn Thị Giang là làm người tuyên truyền cho đảng. VNQDĐ có một ban tuyên truyền với mục đích viết, xuất bản, lưu hành sách, tờ rơi và báo phục vụ cho mục đích chiêu mộ những người lính Việt Nam vào phong trào của mình [7]. Trong vai trò này, bà di chuyển khắp miền Bắc Việt Nam, thông báo với những ứng cử viên tiềm năng về sứ mệnh và công việc của VNQDĐ. Bà cũng phát biểu về chiến lược chính trị, về đấu tranh vũ trang với các cá nhân, nhóm và đôi khi cho toàn bộ người dân trong một làng. Nhiều áp phích, truyền đơn xuất bản bởi bộ phận tuyên truyền của Đảng là do bà tự viết.

Với việc tham gia vào những hoạt động tuyên truyền và binh vận, Nguyễn Thị Giang phải đối mặt với nhiều nguy hiểm. Bởi vì, trong thời thuộc Pháp, những nhóm người dám nói về các vấn đề chính trị, về việc giành độc lập dân tộc phải đối mặt với tù tội, lao động khổ sai hoặc lưu đày. Hơn nữa, người Việt Nam di chuyển khắp Đông Dương đều bị yêu cầu thẻ căn cước. Nguyễn Thị Giang vốn bị cảnh sát thuộc địa biết rõ mặt, những chuyến đi của bà đòi hỏi bà phải cải trang và dùng nhiều giấy CMND giả. Bất chấp hiểm nguy, Nguyễn Thị Giang tiếp tục công việc truyền thông và tuyên truyền, cũng như chị của bà là Nguyễn Thị Bắc, người hay đi cùng bà.

Thông qua các mật vụ của mình, mật thám Pháp, giữa năm 1929 và 1930, biết rõ hoạt động của Nguyễn Thị Giang trong VNQDĐ. Khi họ tìm thấy một kíp nổ trong một ngôi làng ở tỉnh Bắc Ninh, các nhân viên mật thám nhanh chóng tìm ra mối liên hệ của sự kiện này với Nguyễn Thị Giang. Họ báo cáo cho Thống sứ Bắc Kỳ rằng hẳn không phải là tình cờ khi những kíp nổ được tìm thấy trong một ngôi làng mà bà thường xuyên ghé thăm, tham gia và tổ chức những “hội nghị cách mạng” ở đó [8]. Sở Mật thám cũng nhận ra thành công trong chiến dịch tuyên truyền của VNQDĐ, họ viết một báo cáo nhận định rằng thông điệp của nó “được đón nhận nồng nhiệt bởi giới trí thức trẻ, đặc biệt là giáo chức và sinh viên” và cũng được “ủng hộ to lớn trong giới quân đội” và “rất nhiều những sĩ quan dự bị người dân tộc trong pháo binh, bộ binh, quản lý tài chính và không quân đều gia nhập Đảng” [9]. Học giả Oscar Chapuishas cũng lưu ý rằng Khởi nghĩa Yên Bái, đã có “một số lượng lớn những người lính Đông Dương đã tham gia VNQDĐ nhờ vào mạng lưới tuyên truyền được dẫn dắt bởi hai người phụ nữ, Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) và Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc)” [10].

Louis Marty, chỉ huy trưởng của Sở mật thám Pháp tuyên bố với chính quyền thuộc địa rằng VNQDĐ đã tổ chức một “bộ phận” do phụ nữ đảm nhiệm mà các thành viên trong đó đóng vai trò to lớn vào các hoạt động chống thuộc địa. Marty thậm chí còn cho rằng “Hoạt động cách mạng của Giang còn vượt xa cả của Nguyễn Thái Học”.

Ngay khi có được niềm tin của Nguyễn Thái Học với việc giao cho mình những thông tin mật của Đảng, Nguyễn Thị Giang chuyển sang làm nhiệm vụ của một cán bộ liên lạc. Vai trò của bà là đảm bảo thông tin liên lạc trong mạng lưới giữa các thành viên và các đơn vị của đảng được an toàn. Công việc của bà với cương vị là một liên lạc viên giúp cho Đảng có thể truyền đi những thông tin quan trọng liên quan đến việc hành động của các căn cứ, và cảnh giác với các gián điệp trong hàng ngũ VNQDĐ. Để tránh bị lộ, các liên lạc viên không thể sử dụng những cách thức giao tiếp thông thường và chính thống như gửi thư qua đường bưu điện hoặc điện tín, bởi vậy các liên lạc viên luôn mang bên mình các chỉ thị viết tay cũng như các giấy ghi chú, thư trao đổi giữa các đảng viên. Khi yêu cầu về an toàn buộc những đảng viên VNQDĐ không được rời nơi ẩn nấp vì họ đang bị truy lùng bởi mật thám, liên lạc viên là những người đến tận nơi trốn của các đảng viên để cung cấp cho họ những thông tin nhạy cảm. Trong sách viết về VNQDĐ, Hoàng Văn Đào viết về công việc liên lạc của Nguyễn Thị Giang: “Khi Nguyễn Thái Học cải trang và giấu mình ở các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình và Phú Thọ, rừng núi hiểm trở càng khiến cho việc lên đó thêm khó khăn và hiểm nguy, bà vẫn luôn mang đến cho ông những tin tức, thông tin và truyền đi những chỉ thị của ông cho các cơ sở đảng địa phương” [11].

Báo cáo của Louis Marty về các hoạt động dự kiến của VNQDĐ vào năm 1934 và sau đó là về Khởi nghĩa Yên Báy tiết lộ rằng khi Nguyễn Thái Học bị bắt và giam ở nhà tù Hỏa Lò tại Hà Nội vào tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thị Giang vẫn đóng vai trò là liên lạc viên giữa ông và Lê Hữu Cảnh, người thay Nguyễn Thái Học lãnh đạo Đảng [12]. Hoàng Văn Đào cho rằng lúc đó, Nguyễn Thị Giang là cố vấn chính của VNQDĐ [13]. Sự cống hiến và tầm quan trọng của Nguyễn Thị Giang với đảng được Louis Marty khẳng định khi ông nhận xét bà là một liên lạc viên “kiên gan” [14]. Bằng chứng rõ ràng cho công việc liên lạc của Nguyễn Thị Giang là khẳng định đóng góp to lớn cho đảng bởi vì nó giúp cho tổ chức này tiếp tục hoạt động mặc dù bị đàn áp dữ dội bởi chính quyền thuộc địa và mặc dù những thủ lĩnh chủ chốt của VNQDĐ bị bắt giam.

Công việc liên lạc vô cùng khó khăn và nguy hiểm đối với Nguyễn Thị Giang. Bà di chuyển liên lục, thường hóa trang để cảnh sát không thể nhận ra. Sở mật thám ý thức được công việc của bà và thậm chí còn phổ biến về mô tả bề ngoài của bà cho tất cả các mật vụ của họ [15]. Một nguồn tin giấu tên cho biết có lần, khi bà đang ở nhà một đảng viên khác thì cảnh sát xông vào và bắt giữ người đồng đội của bà. Nhưng Nguyễn Thị Giang thì đã kịp trốn thoát [16]. Khả năng qua mặt chính quyền của bà thực sự xuất sắc, nếu kể đến việc bà có một đặc điểm nhận dạng rất đặc trưng và dễ lộ: mắt bà bị lác. Khả năng này của bà còn giúp cho cả những đảng viên khác nữa, khi cảnh sát đàn áp và săn tìm những người theo Khởi nghĩa Yên Báy, bà đã giúp những người đồng đội của mình trốn thoát và ẩn nấp ở nơi an toàn. Chẳng hạn như, bà đã đưa người đồng đội Nguyễn Văn Viên (người chỉ huy vụ ám sát cai mộ phu Alfred François Bazin năm 1929 – ND) tới nơi an toàn ở Hải Phòng và từ đó ông có thể vượt biên sang Trung Quốc [17].


Một thành tựu khác, ít được biết đến hơn của bà Nguyễn Thị Giang đó là lên kế hoạch và tổ chức khởi nghĩa vũ trang chống lại chế độ thuộc địa và những kẻ phản bội VNQDĐ. Theo những tài liệu tìm được trong kho lưu trữ, vào năm 1929, Sở Mật thám phát hiện ra ít nhất 150 quả bom ở tỉnh Bắc Ninh. Một trong số sáu người bị bắt và bị buộc tội đặt bom khai với cảnh sát rằng chính Nguyễn Thị Giang là người hướng dẫn chế tạo và đặt những quả bom này [18]. Có bằng chứng cho thấy rằng VNQDĐ cũng bày kế hoạch để ám sát người sau đó là Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier cũng như rất nhiều quan chức Pháp cao cấp khác. Khi bị thẩm vấn, Lê Văn Cảnh, một thành viên VNQDĐ bị bắt, tiết lộ rằng ông đã viết một chỉ thị bằng mực vô hình thừa lệnh Nguyễn Thị Giang, tuyên bố rằng đã đến lúc chấm dứt thời kì thuộc địa của Việt Nam và việc ám sát Pasquier sẽ đóng vai trò như một sự khởi đầu và là lời cảnh báo nghiêm khắc [19]. Chỉ thị của bà Giang cũng kêu gọi nỗ lực tiếp tục chiêu mộ thêm thành viên và ám sát càng nhiều “kẻ thù của đảng càng tốt” [20]. Lời kêu gọi cho những cuộc ám sát cụ thể được đưa ra bởi Nguyễn Thị Giang đều nhất quán với chiến lược chung của VNQDĐ.


Sử dụng những vụ ám sát như một phương thức để loại bỏ những nguy cơ xảy đến với VNQDĐ không chỉ giới hạn trong những đối tượng người Pháp. Báo cáo của Sở Mật thám chỉ ra rằng Nguyễn Thị Giang còn chịu trách nhiệm trong việc ra lệnh ám sát một người đàn ông tên là Nguyễn Văn Ngọc, kẻ bị tình nghi là mật vụ của Sở Mật thám. Mặc dù kẻ này về sau bị bắt và tống giam, Ngọc bị siết cổ trong tù, khả năng là do lệnh của bà Giang [21]. Một đảng viên khác, Phạm Thành Dương, người đã tiết lộ thông tin khiến Sở Mật thám dò ra được vị trí đặt kíp nổ, cũng bị giết bởi chỉ thị của bà Giang [22]. Báo cáo của cảnh sát Pháp cũng chỉ ra Nguyễn Thị Giang có liên đới tới vụ ám sát của một người đàn ông tên là Nguyễn Bình. Khi đưa ra tấm ảnh của Nguyễn Thị Giang, một trong những kẻ đồng phạm thực hiện vụ ám sát xác nhận bà có mặt trong cuộc họp bàn kế hoạch giết Bình [23].

Trong quá trình diễn ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào đầu những năm 1930, bà cùng với người chị của mình, Nguyễn Thị Bắc và một người phụ nữ khác gọi là Đỗ Thị Tâm, cùng nằm trong một tiểu đội [24]. Vào ngày khởi nghĩa, Nguyễn Thị Giang đã có mặt ở Yên Bái để tiến hành nhiệm vụ của mình, mang theo toán quân đến một nơi an toàn trong núi. Trong khi đó, Nguyễn Thị Bắc, cùng những người khác, cải trang và hành động như những tiểu thương, thực ra là vận chuyển vũ khí từ Phú Thọ đến Yên Bái [25]. Mặc dù cuộc nổi dậy của Yên Bái bị đánh bại bởi quân đội Pháp, nhưng nó vẫn giáng một đòn mạnh mẽ vào danh dự và an ninh của chính quyền thuộc địa. Tuy nhiên, sự đáp trả của chính quyền thuộc địa Pháp rất tàn nhẫn. Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông bị bắt, tống giam và tử hình vì đứng sau điều phối cuộc nổi dậy. Nguyễn Thị Giang xoay sở và trốn thoát nhưng bà hiểu rằng bà có thể sẽ phải đối mặt với số phận tương tự khi Sở Mật thám tìm ra bà. Chị của bà, Nguyễn Thị Bắc, cũng đã bị bắt và dẫn đến nhà tù Hỏa Lò. Bà Bắc bị buộc tội hành động phá hoại an ninh của Đông Dương. Bà bị tuyên án tù 20 năm trong phiên tòa và sau đó bị đem đến nhà tù Côn Đảo [26]. Dẫu vậy, mặc dù nguy hiểm, vào 17/6/1930, Nguyễn Thị Giang vẫn tìm đường đến được Yên Báy, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa và nơi sẽ diễn ra cuộc hành quyết của Nguyễn Thái Học. Trong trang phục của người tiểu thương, bà trà trộn vào đám đông ở pháp trường, chờ để chứng kiến cuộc hành hình. Nguyễn Thị Giang không gây ra bất kì sự chú ý nào khi bà quan sát lưỡi dao của chiếc máy chém tiến dần đến người đàn ông mà bà gọi là chồng. Mô tả lại cuộc hành quyết, Sở Mật thám báo cáo rằng có khoảng 60 người đến xem “hầu hết là phụ nữ và thanh niên” [27]. Một lần nữa, Nguyễn Thị Giang vẫn không hề bị phát hiện trước sự hiện diện của rất nhiều nhân viên cảnh sát.

Hai ngày sau khi Nguyễn Thái Học bị hành hình, tại quê hương của ông, những người tiểu thương bắt gặp thi thể của một người phụ nữ trẻ trong trang phục tang, nằm trên đồng ruộng, chết vì vết thương do súng bắn. Họ biết được đó là Nguyễn Thị Giang bởi họ tìm thấy hai lá thư được ký tên gài trong quần áo của bà. Cuối cùng, người em gái bà Giang, Nguyễn Thị Tỉnh, nhận ra đấy là chị của mình. Trong những bức thư của mình, bà Giang giải thích lý do bà quyên sinh. Một lá thư nói về nỗi đau của bà sau cuộc hành quyết Nguyễn Thái Học, diễn tả mong muốn của bà “được theo chồng lên thiên đàng”.  Để theo chồng, bà dùng khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học. Bà đã từng yêu cầu ông đưa cho bà để khi ông bị giết, bà có thể dùng nó để kết liễu đời mình [28]. Bức thư thứ hai được gửi đến cha mẹ của Nguyễn Thái Học:

“Thưa Thầy, Mẹ,

Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con; không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng. Giờ con tìm về chỗ quê cha, đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con!

Đứa con dâu bất hiếu kính lạy.

Nguyễn Thị Giang” [29],

Có quá ít các tài liệu lưu trữ liên quan đến việc bà Giang tự vẫn, chúng ta chỉ còn lại hai bức thư, được giữ trong hồ sơ của Trung tâm lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp tại tỉnh Aix-en-Provence, Pháp. Từ những ghi chú viết tay này, chúng ta chỉ biết được rằng cuộc sống nằm ngoài sức chịu đựng của bà vì cái chết của Nguyễn Thái Học và bởi hoạt động chính trị của họ làm tổn hại tới gia đình. Bà Giang cũng lo lắng cho những hiểm nguy mà các đồng đội làm cách mạng của mình sẽ phải đối mặt.

Điều chúng ta cần nhớ về Nguyễn Thị Giang, tuy nhiên, không chỉ nằm ở sự cống hiến cho Nguyễn Thái Học hay sự quyên sinh của bà. Nguyễn Thị Giang nên được ghi nhận như một người yêu nước, một người làm cách mạng với một ý chí độc lập, người tham gia, thậm chí là còn tích cực hơn những đảng viên khác trong cuộc vật lộn giành độc lập cho Việt Nam từ tay chính quyền thực dân Pháp. Những hoạt động của bà đã kêu gọi vô kể thành viên tham gia vào đảng. Nguyễn Thị Giang đã dành gần ba năm di chuyển khắp miền Bắc Việt Nam, đánh cược mạng sống của mình, để truyền tải những thông tin quan trọng và đảm bảo rằng VNQDĐ hoạt động được thông suốt và an toàn. Hơn nữa, bà tổ chức, lên kế hoạch và tham gia cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại quân đội và sĩ quan Pháp. Đóng góp của bà vào VNQDĐ và để đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam từ năm 1927 đến 1930 đầy xuất sắc. Bản thân chính quyền thực dân và cảnh sát Pháp đều biết và ghi nhận điều đó. 

Chú thích:

1 Phuong Bui Tranh, “Femmes vietnamiennes pendant et après la colonisation française et la guerre américaine : réflexion sur les orientations bibliographiques,” in Histoire des femmes en situation coloniale, edited by Anne Hugon, paris : Karthala, 2004, p. 78

2 Cô Giang : Follow him to Heaven, Virtual Vietnam Archive, Douglas Pike Collection: Unit 08 Biography, Item #48929, p. 33.

3 Phut Tan Nguyen, A Modern History of Vietnam, 1802-1954, Hanoi: Nha San Khai Tri, 1964, p. 380.

4 Lang Nhan, Nhung Tran Danh Phap. Tu Ham Nghi Den Nguyen Thai Hoc, 1885-1931, Houston, TX: Zieleks, 1987, p. 205.

5 Louis Marty, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’indochine française, Hanoi :1933.

6 Ibid.

7 Archives nationales d’Outre-mer (ANOM), Gouvernement général de l’indochine (GGI), Dossier 65517, Rapport du président de la commission criminelle, p. 32.

8 ANOM, Service de liaison avec les originaires des territoires français d’Outre-mer (SLOTFOM), Série 3, Carton 131.

9 Louis Marty, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’indochine française, Hanoi :1933.

10 Oscar Chapuis, The Last Emperors of Vietnam. From Tu Duc to Bao Dai, Westport CT: Greenwood Press, 2000, p. 109.

11 Hoang Van Dao, Viet Nam Quoc Dan Dang. A Contemporary History of a National Struggle, 1927-1954, translated by Huynh Khue, Pittsburgh: Rose Dog Books, 2009, p. 488.

12 Louis Marty, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’indochine française, Hanoi :1933.

13 Hoang Van Dao, Viet Nam Quoc Dan Dang. A Contemporary History of a National Struggle, 1927-1954, translated by Huynh Khue, Pittsburgh: Rose Dog Books, 2009, p. 127.

14 Louis Marty, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’indochine française, Hanoi :1933.

15 Cô Giang : Follow him to Heaven, Virtual Vietnam Archive, Douglas Pike Collection: Unit 08 Biography, Item #48929, p. 34.

16 Ibid.

17 Ibid.

18 ANOM, SLOTFOM, Série 3, carton 131.

19 ANOM, Résidence supérieure du Tonkin (RST) Police de Sûreté, Commissaire spécial, Procès verbal, 1930

20 Ibid.

21 Louis Marty, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’indochine française, Hanoi :1933.

22 Ibid.

23 ANOM, RST, Commisariat special de la Sûreté, 21 Août 1930.

24 ANOM, SLOTFOM, Série 3, carton 131.

25 Ibid.

26 She was released six years later, in 1936, when the French metropolitan Front Populaire government ordered the release of a number of political prisoners ANOM, RST, Dossier 2244.

27 ANOM, Fonds ministériels (FM), Nouveaux Fonds (FM), Dossier 2626 Service de la Sûreté du Tonkin, Note confidentielle 7880.

28 Hoang Van Dao, Viet Nam Quoc Dan Dang. A Contemporary History of a National Struggle, 1927-1954, translated by Huynh Khue, Pittsburgh: Rose Dog Books, 2009, p. 490.

29 Ibid.

30 ANOM, GGI, Dossier 65537, Police de l’Indochine, Service de la Sûreté du Tonkin, Suicide de Nguyen Thi Giang.

 MỸ CHUẨN BỊ GIAO TẶNG CHO VN MỘT TÀU TUẦN DUYÊN THỨ II

Theo tin tức từ tờ My Edmonds News có trụ sở tại bang Washington, Mỹ, hôm 19.5.2021 đã công bố hình ảnh tàu tuần tra USCGC John Midgett đang chạy thử trên vùng biển gần bờ.

Con tàu được sơn màu trắng có số hiệu 8021 ở mũi, cùng dòng chữ "Cảnh sát biển Việt Nam" và "Vietnam Coast Guard" dọc hai bên sườn. Hai bên ống khói được sơn quốc kỳ Việt Nam.

Tàu dài 115 m, rộng 13 m, có lượng giãn nước 3.050 tấn, được trang bị hai động cơ diesel và hai động cơ turbine khí, với vận tốc tối đa 54 km/h. Tàu có thể làm nhiệm vụ 45 ngày liên tục trên biển với tầm hoạt động 20.000 km. Một số các radar và vũ khí của tàu đã được tháo bỏ trước khi chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam, tàu chỉ được giữ lại đại bác Otobreda  76 mm trước mũi. Nguồn: https://www.dvidshub.net/image/6033231/vietnamese-coast-guard-members-tour-us-coast-guard-cutter-john-midgett

Đại diện của Bộ Ngoại giao HK xác nhận tàu John Midgett sẽ được bàn giao cho Việt Nam vào cuối tháng 5-2021.

Người phát ngôn cho Bộ Ngoại giao HK cho biết rằng con tàu đang ở Seattle (Washington) – nơi đã tổ chức những buổi huấn luyện cho phía CSB vào tháng 1/2020 ở Hawai –  sau đó sẽ được giao cho phía Việt Nam trong tháng 5/2021. 

Cái lạ nơi đây là các đỉnh cao trí tuệ như ông Thiếu Tướng Bùi Trung Dũng Phó Tư Lệnh Cảnh Sát Biển VN và Đại Tá Nguyễn Văn Hưng dẩn đám lâu la sang Hoa Kỳ để được đế quốc Mỹ huấn luyện cho cách sử dụng con Tàu được HK tặng, phải mang theo một nữ thông dịch viên, thật hết sức xấu hổ cho đám Hải Quân Pắc Bó.

 Trước 1975 khi đi nhận tàu của Mỹ chuyển giao, các cấp chỉ huy Việt Nam Cộng Hòa đều không bao giờ sử dụng đến thông dịch viên. Đây là sự khác biệt về trình độ ngoại ngữ của VN Cộng Sản và VNCH. Hầu hết các tướng VN đều thông thạo hai thứ  tiếng Pháp và Anh.

Tàu tuần duyên này từng phục vụ trong cảnh sát biển Hoa Kỳ trước khi Hoa Kỳ tặng cho VN, với cái tên cũ là John Midgett (WHEC 726) , tàu này đã được phía HK sơn phết xong, có số hiệu CBS 8021 của tuần duyên Việt Nam, hiện nó đang chạy thử ở Seattle, Washington. Nguồn: https://westseattleblog.com/2021/05/seen-off-west-seattle-former-us-coast-guard-cutter-john-midgett-transferred-to-vietnam/

Con tàu sắp được HK tặng cho phía Việt Nam nhằm tăng sức mạnh cho CSB-VN để giúp bảo vệ bờ biển trước việc tàu TQ hoành hành trên biển đông, trong hải phận VN. Đây là một trong 12 chiếc tàu thuộc lớp Hamilton.  mà HK đóng trong thập kỷ 1960 để sử dụng trong thời gian Chiến tranh Lạnh.

Đây sẽ là con tàu tuần duyên thứ 2 thuộc lớp Hamilton mà HK đã tặng không cho Việt Nam có bán trang bị vũ khí, CBS 8021 được chuyễn giao sau chiếc tàu zuần duyên USCGC Morgenthau cũng thuộc lớp Hamilton, từng được Cảnh sát biển Việt Nam sử dụng, hiện mang số hiệu CSG 8020 từ cuối năm 2017.

Tổng hợp từ Hậu Duệ VNCH Lê Kim Anh 26.5.2021

NHỮNG ĐỊA ĐIỂM NGẬP TRONG MÙA MƯA Ở TP.HCM


Quận 1:
- Đường Calmette (Từ Lê Thị Hồng Gấm – Nguyễn Công Trứ)
- Đường Nguyễn Thái Bình (Từ Phó Đức Chính – Yersin)
- Đường Cô Giang (Từ Hồ Hảo Hớn – Nguyễn Khắc Nhu)
- Đường Hồ Hảo Hớn (Từ Võ Văn Kiệt – Cô Bắc)
Quận 2:
- Đường Nguyễn Duy Trinh (Từ Nguyễn Tuyển – Nguyễn Tư Nghiêm)
- Đường Lương Định Của (Từ Chân cầu Thủ Thiêm – Cột điện số 24)
- Thảo Điền (Từ Hẻm 95 – Cửa xả 8 )
- Đường Quốc Hương (Từ Đường 47 – Số nhà 127)
Quận 3:
- Đường Kỳ Đồng (Từ Trần Quốc Thảo – Trương Định)
Quận 4:
- Đường Đoàn Văn Bơ (Từ Hoàng Diệu – Bến Vân Đồn)
- Đường Vĩnh Khánh (Từ Hoàng Diệu – Tôn Đản)
- Đường Hoàng Diệu (Từ Nguyễn Tất Thành – Vĩnh Khánh)
Quận 5:
- Đường Dương Tử Giang (Từ Trang Tử – Trần Hưng Đạo)
- Đường Trần Hưng Đạo (Từ Dương Tử Giang – Học Lạc)
- Đường Trần Hưng Đạo (Từ Nguyễn Văn Cừ – Nguyễn Biểu)
- Đường Nguyễn Biểu (Từ Trần Hưng Đạo – Phan Văn Trị)
- Đường Nguyễn Văn Cừ (LP) (Từ số nhà 99 – số nhà 149)
- Đường Đỗ Ngọc Thạch (Từ Trần Hưng Đạo – Trang Tử)
- Đường Gò Công (Từ Hải Thượng Lãn Ông – Võ Văn Kiệt)
Quận 6:
- Đường An Dương Vương (Từ Tân Hòa Đông – Bà Hom)
- Đường Tân Hóa (Từ Hồng Bàng – Cầu Tân Hóa)
- Đường Mai Xuân Thưởng (Từ Lê Quang Sung – Hậu Giang)
- Đường Lê Quang Sung (Từ Trang Tử – Mai Xuân Thưởng)
- Đường Văn Thân (Từ Bà Lài – Lò Gốm)
- Đường Bình Tiên (Từ Võ Văn Kiệt – Phạm Phú Thứ)
- Đường Phạm Phú Thứ (Từ Võ Văn Kiệt – Bình Tiên)
Quận 7:
- Đường Huỳnh Tấn Phát (Từ Gò Ô Môi – Hẻm 1333)
Quận 8:
- Đường An Dương Vương (Từ Bến Phú Định – Cầu Mỹ Thuận)
- Bến Phú Định (Từ Hồ Ngọc Lãm – Cầu Phú Định)
- Đường An Dương Vương (Từ Bến Phú Định – Cầu Mỹ Thuận)
- Đường số 41 (Từ An Dương Vương – Cầu số 41)
- Đường Hồ Ngọc Lãm (Từ Bến Phú Định – Rạch Bà Lựu)
Quận 9:
- Đường Đỗ Xuân Hợp (Trước trường TH Kỹ Nghệ)
- Đường Đỗ Xuân Hợp (Trước UBND Phường Phước Bình)
- Đường Lê Văn Việt (Từ Đình Phong Phú – Hẻm 201)
- Xa Lộ Hà Nội (Đoạn chân cầu Rạch Chiếc)
Quận 10:
- Đường Trần Nhân Tông (Từ Hòa Hảo – Hùng Vương)
Quận 11:
- Đường Hòa Bình (Từ Kênh Tân Hóa – VX Lạc Long Quân)
- Đường Tân Hóa (Từ Hồng Bàng – Cầu Tân Hóa)
- Đường Hồng Bàng (Từ Lò Siêu – Minh Phụng)
- Đường Tôn Thất Hiệp (Từ Tuệ Tĩnh- 3 Tháng 2)
- Đường 3 Tháng 2 (Từ Hàn Hải Nguyên – Tôn Thất Hiệp)
- Đường Lãnh Binh Thăng (Từ Tuệ Tĩnh – Lò Siêu)
- Đường Tuệ Tĩnh (Từ Số nhà 01 – Số nhà 199)
- Đường Nguyễn Chí Thanh (Từ Nguyễn Thị Nhỏ – Hà Tôn Quyền)
Quận 12:
- Đường Nguyễn Văn Quá (Từ Trường Chinh – Tô Ký)
- Đường Quốc lộ 1A (Từ Nguyễn Văn Quá – Lê Thị Riêng)
- Đường Phan Văn Hớn (Từ Quốc lộ 1A – Tân Thới Nhất 08)
Quận Bình Thạnh:
- Đường Nguyễn Hữu Cảnh (Từ Ngô Tất Tố – Cầu Sài Gòn)
- Đường Bình Quới (Từ Khách sạn Nhật Nguyệt – Bến Đò)
- Ngã tư Nguyễn Xí – Ung Văn Khiêm (qua bến xe Miền Đông)
Quận Tân Bình:
- Đường Trương Công Định (Từ Ba Vân – Bàu Cát)
- Đường Âu Cơ (Từ Ba Vân – Trương Công Định)
- Đường Đồng Đen (Từ Bàu Cát 2 – Phạm Phú Thứ)
- Đường Nguyễn Hồng Đào (Từ Âu Cơ – Bàu Cát 2)
- Đường Bàu Cát (Từ Trương Công Định – Đồng Đen)
- Đường Hồ Học Lãm (Từ Quốc lộ 1A – Rạch Bà Lưu)
- Đường Hồ Học Lãm (Từ số nhà 152A – Số nhà 153)
- Đường Hồ Học Lãm (Từ số nhà 520 – Số nhà 588)
- Đường Trần Đại Nghĩa (Từ Quốc lộ 1A – Cầu Cái Trung)
Quận Tân Phú:
- Đường Phan Anh (Từ Tân Hòa Đông – Rạch Bàu Trâu)
- Đường Trương Vĩnh Ký (Từ Tân Sơn Nhì – Nguyễn Văn Tố)
- Gò Dầu (Từ Cầu Xéo – Tân Sơn Nhì)
- Đường Tân Quý (Từ Gò Dầu – Tân Hương)
Quận Bình Tân:
- Đường Kinh Dương Vương (Từ Vòng xoay Mũi Tàu – Hồ Học Lãm)
Quận Gò Vấp:
- Đường Lê Đức Thọ (Từ Trường Tây Sơn – UBND P.13)
- Đường Quang Trung (Từ Phan Huy Ích – Cầu Chợ Cầu 2)
Quận Thủ Đức:
- Đường Kha Vạn Cân (Từ Dương Văn Cam – Bưu điện Thủ Đức)
- Tỉnh lộ 43 (Từ Quốc lộ 1A – Bình Chiểu)
- Đường Gò Dưa (Từ QL1A “Cầu vượt Bình Phước” – Tô Ngọc Vân)
- Đường Dương Văn Cam (Từ Kha Vạn Cân – Lê Văn Tách)
- Đường Đặng Thị Rành (Từ Tô Ngọc Vân – Dương Văn Cam)
- Đường Hồ Văn Tư (Từ số nhà 118 – CX Cầu Ngang)
- Đường Lê Văn Tách (Từ số nhà 3 – Dương Văn Cam)
- Nút giao thông Gò Dưa
Huyện Bình Chánh:
- Quốc Lộ 1A (Từ Cầu Bình Điền – Nguyễn Văn Linh)
Huyện Nhà Bè:
- Đường Huỳnh Tấn Phát (Từ Đào Tông Nguyên – Nguyễn Bình)

Nguồn ĐMX

 ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI DO THÁI (ISRAEL)

Nguồn gốc của người Do Thái theo truyền thống được ghi nhận hiện hữu vào khoảng 1800 TCN bằng những câu chuyện được ghi lại trong Kinh Thánh, và về sự ra đời của đạo Do Thái. Tấm bia Merneptah, có niên đại vào khoảng 1200 TCN, là một trong những tài liệu khảo cổ xưa nhất của người Do Thái sinh sống trong vùng đất Israel, nơi Do Thái giáo, một tôn giáo đầu tiên được thấy xuất hiện và phát triển tại khu vực này. Theo những câu chuyện chép lại trong Kinh Thánh, người Do Thái hưởng được những giai đoạn tự chủ đầu tiên dưới những quan tòa từ Othniel cho tới Samson, sau đó vào khoảng năm 1000 TCN, vua David thiết lập Jerusalem như là kinh đô của Vương quốc Israel và Judah Thống nhất và từ đó cai quản Mười hai chi tộc Israel.

Vào năm 970 TCN, con của vua David là vua Solomon trở thành vua của Israel. Trong vòng mười năm, Solomon bắt đầu xây dựng Đền thờ thiêng liêng được biết đến như là Đền thờ Đầu tiên. Khi Solomon chết (khoảng 930 TCN), mười chi tộc phía bắc tách ra để thành lập Vương quốc Israel. 

DO THÁI BỊ CHIẾM ĐÓNG VÀ LƯU VONG

Vào năm 722 TCN người xứ Assyria chinh phục vương quốc Israel, làm người Israel phải sống lưu vong khắp các nơi, và bắt đầu cho sự hình thành một cộng đồng Do Thái hải ngoại, người Do Thái trở thành những người dân tỵ nạn đầu tiên trên thế giới.

ĐỀN THỜ DO THÁI BỊ PHÁ HỦY LẦN NHẤT

Giai đoạn Đền Thờ thứ nhất kết thúc vào khoảng 586 trước Công Nguyên, khi vua nước Babylon là Nebuchadnezzar II thân chinh đốc suất đại binh phạt Vương quốc Judah và phá hủy đền thờ Do Thái. 

Ông ta cướp bóc sạch các kho báu trong đền thờ, và còn đày ải nhiều người Do Thái. Những người Do Thái khác từ đó cũng phải đi tha hương rồi đến định cư ở các nước khác. 

Vào năm 538 trước Công Nguyên, vua nước Ba Tư là đại đế Cyrus thân chinh điều động binh mã tinh nhuệ phạt nước Babylon và lật đổ Belshazzar, tiêu diệt luôn cả Đế quốc của Nebuchadnezzar II. Cyrus sau diệt được đế quốc Nebuchadnezza II, ông liền tuyên bố:

“Cyrus, vua Ba Tư, nói : Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho ta các nước thế gian, và biểu ta xây cất cho Ngài một ngôi đền tại Jerusalem trong xứ Judah. Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân sự Ngài, hãy trở lên Jerusalem; nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người ấy ở cùng người !”

Thế rồi, không những dân Do Thái mà tất cả các dân tộc tù đày trong Đế quốc Babylon đều được vua Cyrus Đại Đế ban bố tự do cho trở về cố hương. Khác xa với cách đối xử của các vua Ai Cập và Babylon trước đây.

DÂN DO THÁI VỀ LẠI CỐ HƯƠNG

Quan Tổng đốc tỉnh Judah là Sheshbazzar - người có dòng dõi vua David - dẫn nhóm người Do Thái đầu tiên trở về thành Jerusalem. Hai năm sau, tức năm 536 trước Công Nguyên, người cháu của David là Zerubabbel dẫn thêm một nhóm người Do Thái thứ hai trở về cố hương, chấm dứt kiếp tù đày của họ. Trở về, trước cảnh hoang tàn của thành Jerusalem họ hết mực đau buồn. Kể từ triều đại Cyrus Đại Đế, dân Do Thái cũng xuất hiện ở Iran. Ông cũng ban của cải và vật liệu xây dựng đền thờ cho vị quan Tổng đốc này. Từ năm 538 TCN cho đến năm 535 TCN, quan Tổng đốc Zerubabbel đã dẫn dắt nhóm người Do Thái đầu tiên về quê hương. Với chính sách tự do tôn giáo, triều đình Cyrus Đại Đế còn bỏ ra tiền của ngân khố quốc gia Ba Tư giúp nhân dân Do Thái xây dựng lại đền thờ. 

Việc xây dựng Đền thờ thứ hai, được hoàn thành vào năm 516 TCN dưới triều vua Darius Đại Đế (70 năm sau khi Đền thờ Thứ nhất bị phá hủy). 

Khi Alexander Đại Đế chinh phục Đế quốc Ba Tư, vùng đất Israel rơi vào quyền cai trị của người Hy Lạp cổ (Hellenistic Greek), cuối cùng lại mất vào tay Vương quốc Ptolemaios rồi lại mất vào tay Vương quốc Seleukos.

Triều đình Seleukos cố gắng cải tạo lại Jerusalem khi một thành phố theo văn minh Hy Lạp trở thành người đứng đầu sau khởi nghĩa Maqabim thành công năm 168 TCN lãnh đạo bởi tu sỹ Mattathias cùng với 5 người con trai của ông chống lại Antiochus Epiphanes, và họ thành lập Vương quốc Hasmoneus năm 152 TCN với Jerusalem một lần nữa là kinh đô của vương quốc. Vương quốc Hasmoneus kéo dài trên một trăm năm, nhưng sau đó khi Đế quốc La Mã trở nên hùng mạnh hơn họ đưa Herod lên làm vua chư hầu người Do Thái. Vương quốc của vua Herod cũng kéo dài trên một trăm năm. Bị người Do Thái đánh bại trong cuộc khởi nghĩa Do Thái thứ nhất năm 70, cuộc chiến tranh Do Thái - La Mã đầu tiên và cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba năm 135 đã đóng góp đáng kể vào số lượng và địa lý của cộng đồng Do Thái ở nước ngoài, do một phần lớn dân số Do Thái của vùng đất Israel bị trục xuất rồi bị bán làm nô lệ trong toàn Đế quốc La Mã. Kể từ đó, những người Do Thái đã sống tạm trên những nước khác khắp của thế giới, chủ yếu là ở châu Âu và vùng Trung Đông mở rộng, họ phải trải qua nhiều sự ngược đãi, đàn áp, nghèo đói, và ngay cả diệt chủng (xem: chủ nghĩa bài Do Thái, Holocaust), với thỉnh thoảng một vài giai đoạn phát triển hưng thịnh về văn hóa, kinh tế, và tài sản cá nhân ở nhiều nơi khác nhau (chẳng hạn như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan và Hoa Kỳ).

NGÔI ĐỀN THIÊNG BỊ PHÁ HŨY LẦN HAI

Vào năm 70 của Công Nguyên, khi người người La Mã chiếm đóng Do Thái đã phá hủy ngôi đền thiêng này. Vết tích của ngôi đền này, giờ đây chỉ còn lại "bức tường than khóc". Bức tường này, nằm ở phía tây thành phố cổ Jerusalem (Israel), bức tường này là một trong những thánh địa cổ nhất và là một trong những địa điểm cầu nguyện thiêng liêng nhất của người Do Thái giáo. Tại đây các tín đồ có khuynh hướng thành kính viết một lời nguyện cầu trên một mảnh giấy và đặt giấy này trong một khe nhỏ nào đó trong bức tường.

Bức tường "Than Khóc " ở Jerusalem là chứng của đền thờ Do Thái Giáo đã tồn tại ở nơi đây gần 3000 năm, nó còn là một sử liệu xác định sự hiện diện của sắc dân Do Thái và còn được coi là bia chủ quyền của người Do Thái đã lập ra tại vùng đất thánh địa này từ trước các sắc tộc khác có mặt ở nơi này.

THẬP TỰ CHINH ĐỂ CHIẾM JERUSALEM

Đối với quyền lực Thiên chúa  giáo nắm giữ dây cương ở châu Âu, không thể chấp nhận được rằng Thánh địa của Thiên Chúa Giáo nằm trong tay Hồi giáo. Do đó, các cuộc xâm lược khác nhau được gọi là thập tự chinh đã được thực hiện. Cuộc thập tự chinh đầu tiên vào năm 1099 đã thành lập Vương quốc Công giáo Jerusalem. Hồi giáo và Do Thái bị tàn sát mà không có sự phân biệt trong phong trào. 

Sự lưu vong 2.000 năm của người Do Thái bắt đầu từ Đế quốc La Mã, người Do Thái phải sống rải rác khắp mọi nơi trong đế quốc La Mã, và từ vùng đất này đến miền đất khác, người Do Thái định cư ở bất cứ nơi nào mà họ có thể được sống tự do đủ để thực hành Do Thái giáo của họ. Trong quá trình di cư, trung tâm cuộc sống Do Thái di chuyển từ Babylonia đến bán đảo Iberia rồi đến Ba Lan, rồi lại đến Hoa Kỳ và tiếp theo là Chủ nghĩa phục quốc Do Thái để quay trở về vùng đất Israel.

CUỘC CHIẾN GIỬA DO THÁI VÀ PALESTINE ĐỂ GIÀNH NHAU THÁNH ĐỊA JERUSALEM

Sau hàng thiên niên kỷ vất vả để lập quốc và được trở về cố hương Jerusalem vùng đất thánh của dân Do Thái. Jerusalem đối với người Do Thái, đó là quê hương của tổ tiên họ, cũng là nơi phát xuất ra Do Thái Giáo. Đây là vùng mà  người Ả Rập Palestine cũng tuyên bố chủ quyền này của Do Thái vì nơi đây cũng là thánh địa của Hồi Giáo luôn cả Thiên Chúa giáo. 

NGƯỜI DO THÁI LÀ DÂN BẢN ĐỊA TẠI JERUSALEM.

Căn cứ vào sự xuất hiện của các tôn giáo thì Do Thái Giáo được coi là có mặt tại đây trước hơn hai tôn giáo kia. Có nghĩa là người Do Thái đã định cư tại vùng đất này trước hơn người Palestine và các sắc dân khác. Sở dĩ Hồi Giáo và Thiên Chúa giáo có mặt ở thánh địa này, là vì trong thời gian này đất nước Do Thái đã bị các đế chế hùng mạnh chiếm đóng và cai trị, dân Do Thái đã phải bõ nước đi tị nạn khắp nơi trên thế giới. Thế là Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo đã xuất hiện ở nơi này trên đất Do Thái, trong tình trạng bị các đế chế hùng mạnh thời bấy giờ chiếm đóng. 

Tới giữa thế kỷ 19, Lãnh thổ Israel từng là một phần của Đế chế Ottoman (Thổ Nhị Kỳ) với đa số dân Hồi giáo và Ả rập theo Thiên chúa giáo sinh sống, cũng như người Do Thái, Hy Lạp, Druze, Bedouin và các dân tộc thiểu số khác.

Tới năm 1844, người Do Thái là nhóm người đông đảo nhất (và tới năm 1890 trở thành đa số tuyệt đối) ở một số thành phố, nhất là tại Jerusalem. Hơn nữa, ngoài những cộng đồng tôn giáo truyền thống Do Thái đó, được gọi là Old Yishuv.

Năm 1917, Chính phủ Anh Quốc "nhìn nhận với sự ưu tiên việc thành lập tại Palestine một nhà nước quê hương cho người Do Thái"..."nó được hiểu rõ ràng rằng không hành động nào có thể được thực hiện nếu nó có thể làm tổn hại cho các quyền dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái đang sinh sống ở Palestine". Sự nhìn nhận này được một số nước ủng hộ, gồm cả Hoa Kỳ và ngày càng trở nên quan trọng hơn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Liên đoàn quốc gia giao cho Anh Quốc quyền quản trị Palestine.

Đến khi Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái ở Âu Châu, nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp người Do Thái thoát sự phong tỏa của Anh ở vùng này, để đưa người Do Thái về lại Jerusalem.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh Quốc đã bày tỏ ý định muốn rút chân ra khỏi Palestin vốn đang được đặt dưới quyền cai quản của mình. 

Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề nghị việc chia cắt Palestin ra là hai nhà nước, Ả Rập và Do Thái cùng với khu vực Jerusalem được đặt dưới sự kiểm soát của Liên hiệp quốc. Đa số người Do Thái chấp nhận đề xuất này, trong khi đa số người Ả rập tại Palestine phản đối. Người Ả rập hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nhà nước Do Thái tại Palestine, thế là cuộc chiến giửa khối Ả Rập, Palestine và Do Thái đã diễn ra suốt từ những ngày có sự phân chia này.

Năm 1947, Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu cho Palestine được tách thành các nhà nước Do Thái và Ả Rập riêng biệt, với Jerusalem trở thành một thành phố quốc tế. Kế hoạch đó đã được các nhà lãnh đạo Do Thái chấp nhận nhưng bị phía Ả Rập bác bỏ và không bao giờ thực hiện. Đó cũng là nguyên nhân mà nhiều nước trên thế giới đã công nhận nhà nước Do Thái khi ra đời vào giửa thế kỷ XX.

Năm 1948, không thể giải quyết được vấn đề tại đây, người Anh rút ra khỏi ảnh hưởng tại vùng tranh chấp này và các nhà lãnh đạo Do Thái tuyên bố thành lập nhà nước Israel.

Nhiều người Palestine phản đối và một cuộc chiến xảy ra sau đó. Quân đội từ các nước Ả Rập láng giềng tiến vào. Hàng trăm nghìn người Palestine chạy trốn hoặc buộc phải rời khỏi nơi ở trong biến cố mà họ gọi là Al Nakba, hay "Thảm họa".

Vào thời điểm giao tranh kết thúc bằng lệnh ngừng bắn vào năm sau, Israel đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ. Jordan chiếm vùng đất được gọi là Bờ Tây, và Ai Cập chiếm Gaza. Jerusalem bị chia cắt giữa lực lượng Israel ở phía Tây và lực lượng của Jordan ở phía Đông.

Bởi vì không bao giờ có một hiệp định hòa bình - mỗi bên đổ lỗi cho bên kia - đã có nhiều cuộc chiến và giao tranh hơn trong những thập niên sau đó.

Trong một cuộc chiến khác vào năm 1967, Israel đã chiếm đóng Đông Jerusalem và Bờ Tây, cũng như hầu hết Cao nguyên Golan của Syria, Gaza và bán đảo Sinai của Ai Cập.

Hầu hết những người tị nạn Palestine và con cháu của họ sống ở Gaza và Bờ Tây, cũng như ở các nước láng giềng Jordan, Syria và Lebanon.

ĐẤT NƯỚc DO THÁI NGÀY NAY:

Diện tích 20.770 / 22.072 km²

Dân số: 9.357.040 người (hạng 98)

GDP (PPP) (2020): Tổng số: ~361 tỷ USD (hạng 48)

GDP: Bình quân đầu người: 41.560 USD (hạng 19)

Nền kinh tế lớn thứ 30 trên thế giới 

Tôn giáo: 74,8% Do Thái giáo,17,6% Hồi giáo và 2% Thiên Chúa giáo

Israel có quan hệ ngoại giao với 158 quốc gia và có 107 phái bộ ngoại giao trên toàn cầu. 

Lực lượng Phòng vệ Israel duy trì khoảng 176.500 lính tại ngũ cộng thêm 445.000 lính dự bị. Israel xếp hạng 7 thế giới về xuất cảng vũ khí vào năm 2016.

Hàng năm, Israel chi khoảng 19 tỷ USD cho ngân sách quốc phòng, chiếm 5,1% GDP của quốc gia này. So với các quốc gia phát triển, đây là một tỷ lệ cực kỳ lớn cho thấy sự quan tâm của chính phủ Israel về khía cạnh quân sự.

Trong khi đó ở chiều đối thủ  Palestine lại hoàn toàn không có quân đội. Về mặt lý thuyết, quốc gia này chỉ có các lực lượng an ninh quốc gia và lực lượng này không phải một tổ chức quân sự hoàn thiện mà chỉ là tổ chức bán vũ trang. Lực lượng An ninh Quốc gia của Palestine được chia làm sáu binh chủng bao gồm cảnh sất dân sự, an ninh công cộng, cận vệ tổng thống, tình báo, cứu hộ cứu nạn và an ninh dự bị.Tổng quân số của tất cả các lực lượng này vào khoảng từ 45.000 cho tới tối đa 60.000 người. Ngân sách được Palestine chi cho lực lượng an ninh quốc gia vào khoảng 1 tỷ USD.

Trong đó, lực lượng Hamas đã được thành lập từ năm 1987 chủ trương đường lối đấu tranh bằng vũ lực với quốc gia thù địch là Israel và thường được xem là thủ phạm trong các vụ bắn rocket hay đạn pháo sang lãnh thổ Israel.

Trong các vụ náo loạn xảy ra ở Trung Đông thời gian gần đây, lực lượng vũ trang đóng vai trò chủ chốt của phía Palestine thường là phong trào Hamas hoặc phong trào Fatah.

Cuộc chiến để chiếm hữu Jerusalem là cuộc chiến không hồi kết, đã kéo dài biết bao đời và tiếp tục từ thế kỷ XX đến nay, đã có sự góp sức của nhiều quốc gia trên thế giới để đem lại hòa bình cho vùng này. 4 năm dưới thời Tổng Thống Trump vùng này tương đối yên tỉnh, không có chiến tranh xảy ra. Đến thời Tổng Thống gian lận bầu cử Joe Biden bước vào nhà trắng, chỉ vài tháng sau đó là cuộc chiến tại đây đã bùng nổ. Đến hôm nay thì tình hình tại nơi đây đang ở trong tình trạng ngưng chiến 11 ngày, sau khi Hamas đã bắn hơn 4000 quả rocket vào lãnh thổ của Israel và Do Thái cũng đã đáp trả lại bằng những cuộc oanh kích hũy diệt những nơi trú ẩn của các lãnh đạo chiến binh và hệ thống đường hâm của Hamas.

Bình luận từ Hậu Duệ VNCH Nguyễn Thị Hồng, 25.5.2021