Powered By Blogger
TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG

Bài viết nhằm xoá tan các luận điệu ấu trỉ của đám dư lợn viên cộng sản, cho là nhờ vào chuyến viếng thăm HK của Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng nên HK có ý giúp VN đối phó lại với Tàu Cộng ..... Và một số luận điệu phô trương của một vài tổ chức trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, cho rằng việc làm của HK  là nhờ vào sự vận động của các tổ chức nầy (?) - nên Mỹ mới tích cực đưa tàu chiến vào vùng Trường Sa để giúp VN giử vững an ninh và đe doạ Bắc Kinh trong việc thi hành "chủ nghiã bành trường". Thật là nực cười cho các lời lẽ kể trên!!! Những người nầy đã quá coi thường trình độ hiểu biết của quần chúng nên vẩn còn giử những mức độ  tuyên truyền thiếu luận cứ như thế. 

Nên nhớ Hải quân hiện diện trong vùng biển đông tính đến nay là 7 thập niên ( từ sau thế chiến thứ 2)https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_Seventh_Fleet

United States Seventh Fleet -logo (hi-res).jpg
Logo của đệ thất hạm đội

Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ hay Hạm đội 7 (United States 7th Fleet) là một đội hình quân sự của hải quân có căn cứ tại Yokosuka, Nhật Bản, với các đơn vị đóng gần Đại Hàn và Nhật Bản. Nó được đặt dưới quyền chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương. Hiện tại nó là hạm đội lớn nhất trong các hạm đội của Hoa Kỳ, với 50–60 chiến hạm, 350 máy bay và 60.000 nhân sự hải quân và thủy quân lục chiến. Với sự hỗ trợ của các Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm, nó có ba việc được giao lúc mới thành lập đó là:

Bộ tư lệnh lực lượng đặc nhiệm hành quân hỗn hợp,
Bộ tư lệnh hành quân của tất cả các lực lượng hải quân trong vùng, và

Bảo vệ Bán đảo Triều Tiên.

USS Blue Ridge (LCC-19), soái hạm của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ


USS City of Corpus Christi (SSN-705), một tiềm thủy đỉnh nguyên tử của Đệ thất Hạm đội




USS Kitty Hawk (CV-63), trung tâm của Lực lượng Đặc nhiệm 70

 của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ

Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ được hình thành vào ngày 15 tháng 3 năm 1943 tại Brisbane, Úc trong Đệ nhị Thế chiến. Nó phục vụ trong Vùng Tây Nam Thái Bình Dương (South West Pacific Area, viết tắt là SWPA) dưới quyền của Tướng Douglas MacArthur, và Tư lệnh của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ cũng phục vụ như tư lệnh của các lực lượng hải quân Đồng Minh.

Hạm đội cũng tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam, và sau đó tiến hành các hoạt động gần miền Bắc Việt Nam. Tiếp theo là các cuộc tham chiến  trong Chiến tranh Vịnh Ba Tư nơi mà nó được đặt dưới quyền của TổngTư Lệnh Lực lượng Hải quân, Bộ Tư lệnh miền Trung (Naval Forces, U.S. Central Command). Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được điều động về lại Hạm đội Thái Bình Dương.

Tiếp theo sau sự kết thúc Chiến tranh Lạnh, hai kịch bản quân sự chính mà Đệ thất Hạm đội sẽ được sử dụng đó là trong trường hợp xảy ra xung đột tại Triều Tiên hoặc một cuộc xung đột giữa  Trung Cộng và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) tại Eo biển Đài Loan

Phó Đô Đốc (Vice Adm.) Joseph Aucoin là tư lệnh đệ thất hạm đôi từ 7/9/2015 đến nay. http://www.navy.mil/navydata/bios/navybio.asp?bioID=437

Vice Admiral Joseph P. Aucoin
Vice Adm. Joseph P. Aucoin

GIÁ TRỊ  KINH TẾ TRONG VÙNG BIỂN ĐÔNG

Hàng hải châu Á là một hải lộ quan trọng đối với thương mại của thế giới ngày hôm nay cũng như trong quá khứ, và nó sẽ là một phần quan trọng trong dự kiến tăng trưởng kinh tế của khu vực. Hoa Kỳ muốn bảo đảm sự phát triển kinh tế tiếp tục của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

 Sự quan trọng của các tuyến đường biển ở Châu Á-Thái Bình Dương đối với thương mại toàn cầu.Tám trong số 10 cảng container nhộn nhịp nhất trên thế giới nằm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và gần 30 phần trăm thương mại hàng hải của thế giới đi qua Biển Đông hàng năm, trong đó có khoảng 1200 tỷ USD trong thương mại bằng tàu thủy gắn bó với Hoa Kỳ. Khoảng hai phần ba lô hàng dầu lửa của thế giới quá cảnh qua Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, và trong năm 2014, hơn 15 triệu thùng dầu đi qua eo biển Malacca (Mã Lai) mỗi ngày. Điều nầy là động lực chính để Hoa Kỳ luôn phải có mặt ở vùng biển Đông

Giá trị về trữ lượng và sự hiện thực về tiềm năng tài nguyên hydrocarbon rộng lớn ở biển đông Trung Cộng và Biển Đông ( biển Đông Nam TC ) làm cho vùng nầy ngày càng trầm trọng hơn vì tham vọng của tàu Cộng vì thế Tàu Cộng ngày càng đơn phương đặt ra những yêu sách tạo phức tạp cho vùng nầy. Theo một báo cáo của Liên Hợp Quốc ước tính rằng chỉ một mình Biển Đông chiếm hơn 10 phần trăm sản lượng thủy sản toàn cầu. Mặc dù các số liệu thay đổi về thực chất, Cục Quản lý Thông tin Năng lượng LHQ ước tính có khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối dầu đã được chứng minh, và trữ lượng khí đốt tự nhiên ở Biển Đông và bất cứ nơi nào từ một đến hai ngàn tỷ feet khối trữ lượng khí đốt tự nhiên, và 200 triệu thùng dầu ở biển đông Trung Cộng. .Điều nầy cũng là động lực chính để Hoa Kỳ luôn phải có mặt ở vùng biển Đông

Việc Hoa Kỳ bảo đãm an ninh trong vùng biển đông rất phù hợp với đạo luật phòng vệ quốc gia trong năm tài chính 2015 mục 1259 của Carl Levin và Howard P. “Buck” McKeon , Công Pháp 113-291, báo cáo này vạch ra chiến lược của Bộ Quốc Phòng liên quan đến an ninh hàng hải trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và lĩnh vực hàng hải đối với an ninh của Hoa Kỳ, Bộ QP Hoa Kỳ chú ý đặc biệt vào việc bảo vệ tự do trên các vùng biển, ngăn chặn xung đột, tình trạng áp bức, và thúc đẩy việc tuân thủ pháp luật và các tiêu chuẩn quốc tế. Như đã từng làm trước đó,  Mỹ sẽ tiếp tục bay ngang, chạy thuyền qua, và hoạt động bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, hỗ trợ những mục tiêu này và lập trật tự giữ gìn hòa bình và an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương như đã được hưởng trong 70 năm qua.

BỐN LÝ DO ĐỂ HK PHẢI CÓ MẶT THƯỜNG TRỰC TRONG VÙNG BIỂN ĐÔNG:

Trung Cộng trong những ngày qua rất tức giận  trước quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông khi Ngũ Giác Đài hôm 27/10 khởi sự điều tàu chiến tuần tra khu vực mà Bắc Kinh nói thuộc phạm vi chủ quyền của Trung Cộng ở Trường Sa.

Hãng thông tấn chính thức của nhà nước Trung Cộng ngày 29/10/2015 cho đăng bài bình luận đe dọa sử dụng võ lực chống lại kế hoạch của Mỹ ở Biển Đông.

Bài viết trên Tân Hoa xã cảnh cáo ‘Mỹ không nên tự tin thái quá về khả năng tránh được đụng độ ở Biển Đông’, đồng thời lên án Hoa Kỳ tự biến mình thành một bên trong tranh chấp Biển Đông là bất hợp lý.


Hoa Kỳ khẳng định không can dự vào tranh chấp chủ quyền Biển Đông mà chỉ thực thi quyền tự do hàng hải-hàng không theo đúng luật pháp quốc tế.   

Trường Sa và Hoàng Sa nằm trong biển đông là nơi có 6 nước đang tranh chấp chủ quyền một số đảo trong quần đảo nầy gồm: Brunei, Trung Cộng, Malaysia, Philippines, Đài Loan, và Việt Nam.

Có ba tranh chấp chủ quyền lãnh thổ chính:

Thứ nhất là tranh chấp giữa Trung Cộng, Đài Loan, và Việt Nam về chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Cộng đã chiếm đóng từ năm 1974. 

Thứ hai là cuộc tranh cải trên Scarborough Reef giửa Trung Cộng – Đài Loan – Philippines. 

Thứ ba là tranh chấp giửa nhiều bên đối với quần đảo Trường Sa về địa lý của thềm lục địa gồm: Trung Cộng, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên bằng tính địc lý đất ở Trường Sa, trong khi Brunei, Malaysia, và Philippines chỉ tuyên bố chủ quyền trong một nhóm đảo. Việt Nam và Malaysia vẫn chưa phân định đầy đủ các yêu sách hàng hải của họ ở Biển Đông.

TÀU CỘNG TẠO PHỨC TẠP TRONG VÙNG BIỂN ĐÔNG

Những diển tiến phức tạp ngày càng gia tăng trong lĩnh vực hàng hải châu Á-Thái Bình Dương vì sự đe doạ và  hống hách của Tàu Cộng - coi thường việc bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ và các nước trong vùng tranh chấp nầy. Bắc kinh gần đây đã dùng những hòn đảo chiếm được của VN từ mấy thập niên qua, khởi đầu là từ công hàm bán nước của nước VNDCCH 1958, trong thời hồ chí minh còn sống.

Hoa Kỳ có những lợi ích kinh tế và an ninh lâu dài ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và bởi vì khu vực – trải dài từ Ấn Độ Dương, thông qua các vùng biển phía Nam và Đông Trung Hoa, và ra Thái Bình Dương – chủ yếu là biển, HK phải dự trù trong thời gian tới một khoản đầu tư cho chi phí về Hải Quân trong vùng CÁ-TBDcho để duy trì hòa bình và an ninh hàng hải.


Với trách nhiệm bảo đãm hải lộ đó, Bộ Quốc phòng Mỹ có ba mục tiêu hàng hải trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương: bảo vệ tự do trên biển; ngăn ngừa xung đột và cưỡng chế áp bức; và thúc đẩy việc tuân thủ pháp luật và các tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ nhất, Hoa Kỳ có thể  bảo đảm và ngăn ngừa thành công những xung đột và tình trạng áp bức và đáp trả dứt khoát khi cần thiết bằng cách tăng cường năng lực quân sự . 

Thứ hai, Hoa Kỳ đang có sự trao đổi và làm việc chung  với các đồng minh và các đối tác hàng đầu của HK từ Đông Bắc Á đến Ấn Độ Dương để tăng cường đối trọng cho họ nhằm giải quyết những thách thức tiềm tàng trong các vùng biển và toàn khu vực. 

Thứ ba, HK cũng đang lợi dụng ngoại giao quân sự để xây dựng sự minh bạch hơn, giảm nguy cơ tính toán sai lầm hoặc xung đột và thúc đẩy chia xẻ những quy tắc của lộ trình hàng hải. 



Cuối cùng, HK đang thay đổi chiến lược trong vù Châu Á TBD nhằm tăng cường an ninh khu vực và khuyến khích phát triển một cấu trúc an ninh khu vực “mở” hiệu quả hơn để đối phóvới các hoạt động quân sự của Trung Cộng nhằm đe doạ an ninh trong vùng nầy.


 Cùng với các đồng minh và các đối tác trong khu vực, HK đang có những nổ lực tập trung vào việc bảo đảm rằng hàng hải châu Á vẫn luôn “mở”, tự do và an toàn trong những thập kỷ tới.

Song song với việc tăng cường tuần thám trong vùng biển động HK cũng thường xuyên kêu gọi tất cả các bên theo đuổi các biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp của họ, trong đó bao gồm ngoại giao cũng như giải quyết tranh chấp của bên thứ ba, chẳng hạn như đệ trình của Philippines về các yêu sách của họ cho trọng tài theo các thủ tục giải quyết tranh chấp trong Công ước Luật Biển. Hoa Kỳ cũng kêu gọi tất cả các bên phải có hành động để thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DoC) và tiến hành các biện pháp hướng tới kết luận sơ khởi một bộ quy tắc ứng xử có ý nghĩa (CoC), trong đó sẽ cung cấp thoả thuận theo những nguyên tắc của lộ trình giảm căng thẳng giữa các nước yêu sách.

LỜI KẾT:

Hoa ký có mặt tại biển đông người Việt tự do chúng ta có thể khẳn định dứt khoát là không vì quyền lợi của VN!! Nên nhớ vào tháng giêng 1974, khi cuộc hải chiến ở Hoàng Sa giửa HQ.VNCH và HQ.Trung Cộng. Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ có mặt gần đấy, cũng không giúp gì cho VNCH trong việc cứu thương các chiến sĩ tham dự hải chiến Hoàng Sa với Tàu cộng bị thương trôi dạt trên biển. 

Hậu duệ VNCH chúng ta cũng nên cân nhắc cẩn thận vào các chiến lược của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương để không lầm lẫn về quyền lợi của HK với các đối tác của HK trong vùng, trong đó không có VN, từ đó có những nhận định chính xác hơn về các biến chuyễn gần đây trong vùng Trường Sa- thuộc chủ quyền của VN. 

Có thực mới vực được đạo!! Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. HK cũng từng nhiều lần tuyên bố là không can thiệp vào việc tranh chấp chủ quyền của các nước có sự tranh chấp trong vùng biển đông. 

Nên nhớ - Việt Nam không phải là đồng minh và đối tác quan trọng của Mỹ. Do đó, không có chuyện Mỹ bảo vệ biển đông cho Việt Nam. Nước Mỹ là một nhà tư bản thực dụng sẽ cân nhắc mình được và mất gì khi đứng về một bên nào trong việc đưa lực lượng hải quân hùng hậu để chuyễn trục vào Châu Á .Thái Bình Dương. Tất cã đều vì chiến lược của Hoa Kỳ hiện nay trên đường hải lộ quốc tế tương quan với quyền lợi của HK và các nước đồng minh lẩn đối tác quan trọng trong vùng nầy.

Cộng sản VN cũng đừng nên mơ tưởng HQ Hoa Kỳ có mặt trong vùng biển đông hiện thời sẽ là đối trọng cân bằng cán cân quân sự cho CHXHCNVN để lập lại trật tự ổn định những vùng bị Tàu Cộng chiếm trong mấy thập niên qua. Các đầu lĩnh Ba Đình càng im lặng trước sự việc Tàu cộng xây dựng phi trường và các công sự trên các đẳo nhân tạo hiện nay trong phạm vi thuộc chủ quyền VN, là những hành động củng cố sự chủ quyền của Tàu Cộng từ trái phép để trở thành hợp pháp!! Cs VN với thái độ thông thường là im lặng, đó là hành động tiếp tay với kẻ thù của nhân dân VN, dâng đất dâng biển đảo tiếp tục cho đàn anh mình là Tàu Cộng.

Quốc tế và nhân dân VN đang trông chờ một động thái thích hợp với tình hình biển đông ngày hôm nay của các đầu lĩnh Ba Đình - vì quyền lợi đất nước và dân tộc lập tức thoát trung và liên tục phản đối Trung Cộng bằng tất cã mọi hình thức có thể kể cã việc truy tố Tàu Cộng trước một Toà Án Quốc Tế về Hàng Hải như Phi Luật Tân đã từng làm và thắng kiện,  để bảo vệ chủ quyền đất nước. trích điều 4 HP nước CHXHCNVN:

“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết Mác Lênin là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam..."

Đảng csVN hãy một lần chứng tỏ bản lĩnh lãnh đạo của mình trước các thử thách đang dần diển biến đầy bất lợi cho VN trong tương lai. Nếu không làm được việc nầy, xin hãy nhường lại cho các tổ chức chính trị khác để đứng ra cứu nguy cho đất nước và cho Việt tộc.


Đi ta đi lên lấy lại Hoàng Sa!!
Đi ta đi lên lấy lại Trường Sa!!
Nầy sinh viên, nầy thanh niên với trăm nghin  tay súng toàn dân ta cùng nhau chung sức đứng lên nhất tề đấu tranh lấy lại Hoàng-Trường Sa.....Hãy đi vì tổ quốc.....ta đi lấy lại Hoàng sa...Ta đi lấy lại Trường Sa...!!


Lý Bích Thủy, ngày 30/10/2015


DINH ĐỘC LẬP
Lịch sử và các tên gọi của Dinh Độc lập

Người Sài gòn, sống trước ngày 30.4.1975 không ai là không biết đến Phủ Tổng Thống, tức Dinh Độc Lập, cơ quan hành pháp tối cao của miền nam VN trước khi bị csBắc Việt thôn tính vào tháng tư đen 1975. Đây là một công trình xây dựng đồ sộ do Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Ngôi dinh thự nầy được xây cất cách đây 147 năm ( 23.2.1868-2015). Đây là ngôi dinh thự trãi qua nhiều thăng trầm trong các cuộc chính biến, nhìn vào các cuộc dâu bể mà sót xa bồi hồi...Người viết xin nhái câu thơ của cụ Nguyễn Du viết trong "Đoạn Trường Tân Thanh",


Trải qua nhiều (một) cuộc bể dâu 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng


Cửa chính của Dinh Độc Lập thời đệ nhất cộng hoà
Ngày 5.2.1865, tờ Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn) đăng một thông báo của chính quyền thuộc địa dành một khoản tiền thưởng trị giá 4.000 franc cho các kiến trúc sư hay nghệ sĩ nào giới thiệu một đề án tốt nhất được chọn làm cơ sở xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ.

Khoản tiền thưởng nầy không phải là nhỏ vào thời đó, song đến ngày 20.4.1865, vượt quá thời hạn chót 25.3.1865, chỉ mới có một đề án được gửi tới ban tổ chức. Sau đó không lâu, một đề án do một nhóm kiến trúc sư ở Singapore soạn thảo được chuyển đến Sài Gòn, song sau khi xem xét kỹ cả hai đề án, ban tổ chức không chấp thuận một cái nào.
Cuối cùng, cơ hội bắt tay xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã xuất phát từ một sự tình cờ. Trong một dịp ghé Hong Kong, hai đô đốc Pháp Ohier và Roze (cũng từng làm Thống đốc Nam kỳ) được giới thiệu với một kiến trúc sư người Pháp trẻ tên Hermitte, nguyên là học viên trường Mỹ thuật Paris.

Tại Hong Kong, Hermitte đã từng đoạt giải thưởng trong việc thiết kế đồ án Tòa Thị chính, vượt qua nhiều kiến trúc sư khác.Từ khi được biết tài năng của của kiến trúc sư Hermtte. Nên khi hai ông Roze và Ohier trở về Sài Gòn, thuyết phục đương kim Thống đốc Nam kỳ De La Grandìere chính thức nhờ Hermitte thiết kế và xây dựng dinh Thống đốc.




Tranh vẽ về Dinh Thống Đốc Nam Kỳ



Để trọng đãi người kiến trúc sư nầy Thống đốc De La Grandiere phải chi ra một khoản thu nhập khá cao là 36.000 franc/năm, với thu nhập lớn như vậy - cao hơn rất nhiều so với các viên chức Pháp đứng đầu các cơ quan tọa lạc tại Sài Gòn. Hermitte nhập cuộc và trình một đồ án được viên Thống đốc chấp thuận ngay.


Chủ nhật ngày 23 tháng 2 năm 1868, trước đông đảo người tham dự, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã diễn ra dưới sự chủ trì của Đô đốc De La Grandìere, với sự tháp tùng của nhiều sĩ quan và viên chức cao cấp của Pháp.

Người làm phép cho công trình là Giám mục Miche với một diễn từ gây xúc động cho cử tọa. Với sự phụ giúp của kiến trúc sư Hermitte, 
Thống đốc De La Grandìere làm lễ đặt viên đá đầu tiên được chôn sâu 2,6m bên dưới mặt đất, trên một tầng đất rất cứng chắc. Đó là một viên đá hoa cương vuông vắn, mỗi cạnh 50cm, được mang từ Biên Hòa về. Trong thời gian xây dựng, Hermitte đã cho đào một hố móng sâu 3,5 mét, lấy đi 2.436 m3 đất đá và sử dụng khoảng 2 triệu viên gạch.





Năm 1870, công trình đang thực hiện theo tiến độ đã định thì cuộc chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra, hoàng đế Pháp Napoléon III bị bắt làm tù binh, nước Pháp thất trận. Sự kiện này ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ, do nhiều vật liệu phải được chuyển từ chính quốc sang. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn lớn vật liệu xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Tất cả đều được xây theo phong cách tân Baroque giống với kiểu của hoàng đế Napoleon III.

Cũng vì thế mà mãi đến năm 1875, kiến trúc đồ sộ này mới hoàn chỉnh phần trang trí. Sốt ruột về sự chậm trễ trong tiến độ xây dựng và hoàn thành cơ sở, ngay từ năm 1873, Thống đốc Nam kỳ Dupré đã dọn về đây để ở và làm việc trong lúc việc trang trí còn tiếp diễn.
Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom đường trong thời VNCH là đường Thống Nhất, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống đốc.

Trong sảnh dinh thống đốc Nam kỳ

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam. 

Năm 1954 theo hiệp định Genève quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt nam. Ngày 7/9/1954 Ðại tướng Paul Ely, Cao ủy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Ðông Dương thay mặt cho nước Pháp đã trao Dinh Norodom cho đại diện chính quyền Sài gòn là Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Buổi lễ chuyển giao này được coi như một biểu tượng của nền độc lập quốc gia, vì thế ngày 8/9/1954 Thủ tướng Ngô Ðình Diệm đã chính thức đổi tên dinh Norodom thành Dinh Ðộc lập.

Sài Gòn có bến Chương Dương,
Có Dinh Độc Lập, có đường Tự Do 
Có Chợ Quán, có Cầu Kho,
Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm 
(ca dao)





Đường Norodom ( đường Thống Nhất, thời VNCH ) 
được nhìn từ dinh thống đốc Nam kỳ

Dinh Độc Lập trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà

Đảo chánh ngày 11.11.1960

Dân Sài Gòn đi xem đảo chánh


Đến năm 1962 lại xảy ra vụ ném bom dinh Độc Lập vào sáng sớm ngày 27 tháng 2 do hai phi công tên là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện. Mục đích của cuộc tấn công là nhằm ám sát Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và gia đình ông, những người tham gia triều chính, trong đó có cố vấn Ngô Đình Nhu.

Hai máy bay khu trục của Nguyễn văn Cử và Phạm Phú Quốc lượn 
trên sông Sài Gòn sáng ngày 27/2/1962

Góc trái của Dinh Độc Lập bị bốc cháy sau khi trúng bom

Dinh Độc Lập ngay sau cuộc ném bom năm 1962
của Nguyễn văn Cử và Phạm Phú Quốc


Máy bay thực hiện ném bom Dinh Độc Lập của Ông Phạm Phú Quốc được trục lên 
sau khi bị bắn rơi trên sông Sài Gòn

Cuộc ném bom đã kết thúc trong một tiếng đồng hồ nhưng hai viên phi công đã không trút hết bom, nếu không đã san phẳng Dinh Độc Lập. Máy bay của Quốc đã bị hư hỏng bởi tảo lôi hạm ở trên sông Sài Gòn và đã hạ cánh ở Nhà Bè. Cử thì đã đến Campuchia an toàn, tin rằng cuộc tấn công đã thành công.


Ảnh Bà Nhu 7/62 sau cuộc ném bom

Bà Trần Lệ Xuân đang xem bản thiết kế dinh Độc Lập mới
Do không thể khôi phục lại, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long. Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963. Chính vì thế khi xãy ra cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 Tổng Thống Diệm và gia đình đang ở tại Dinh Gia Long.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm dời về Dinh Gia Long 
sau khi Dinh Độc Lập bị ném bom 27/2/1962 

Dinh Gia Long trong ngày  đảo chính 1.11.1963

DINH ĐỘC LẬP ĐƯỢC XÂY MỚI
Dinh Độc Lập sau khi được xây dựng lại do Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ thiết kế.

Bảng đồng đặt trong Dinh Độc Lập, một trong những công trình 
kiến trúc quy mô nhất của KTS.Ngô Viết Thụ

KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT TH

Ngô Viết Thụ (1926–2000), là một kiến trúc sư Việt Nam. Ông đã đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955, là tác giả công trình kiến trúc hiện đại như Dinh Độc Lập, Viện Hạt nhân Đà Lạt, Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Việt Nam Quốc Tự...
Ông sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt. Ông bà có tám người con, trong đó có một người con, TS. Ngô Viết Nam Sơn cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia tốt nghiệp tại Mỹ (Đại học Berkeley và Đại học Washington).
Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam Cộng Hòa làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn.
Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955 và thành viên Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958. Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin. Sau năm 1975, Ông là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam.
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng rất giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật là Dinh Độc Lập (1961-1966). Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962-1965), Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (1963), Xây dựng mở rộng Khu Hội Nghị Quốc tế tầng trên cùng của Khách sạn Majestic, Thương xá Tam Đa (Crystal Palace), trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975).....
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với các bức tranh nổi tiếng Thần tốc, Hội chợ, Bến Thuyền, và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong Dinh Độc Lập, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô chính (1960), tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến trúc Philippines ở Manila (1963), triển lãm lưu động tại Viện Smithsonian và một số thành phố khác tại châu Âu (hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris 1956, 1957, 1958) và tại Mỹ (1963). Nguồn Wikipedia

CÔNG TRINH XÂY DỰNG và CHI PHÍ 

Phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2...
Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2. Trang trí trong dinh có nhiều bức họa của những danh họa có tiếng đương thời. Bức "Giang sơn cẩm tú" của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bức "Khuê văn các", "Vua Trần Nhân Tông" của họa sĩ Thái Văn Ngôn.



Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại cáo" (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh "Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết Thụ; bức "Khuê Văn Các" (Vua Trần Nhân Tông) của họa sĩ Thái Văn Ngôn.

Khi thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến mặt tiền bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT, có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM .


Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.

Ði vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính đại quang minh làm gốc.

Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.

Dinh Độc Lập có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính đó là:

Ðường Công Lý ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)

Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)

Ðường Hồng Thập Tự ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)

Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh)



Dinh có 04 khu nhà:
Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của khu đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống VNCH. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của mỗi phòng.
Khu nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Ðảng Dân chủ.
Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du – Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập.
Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa – Hồng Thập Tự, trước 1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho TT Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc vườn cây.
Ngoài các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Hồng Thập Tự còn có một nhà bát giác đuờng kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn.
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F-5E do tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh sân trực thăng trên nóc Dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng nhỏ. Đây là lần thứ hai trong lịch sử dinh Độc Lập bị đánh bom.
Rồi lịch sử cái gì đến phải đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức nhường quyền lãnh đạo cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nhưng ông này không ở trong dinh. Đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh lên làm tổng thống chỉ ở vỏn vẹn hai ngày trong dinh
CHÙM ẢNH BÊN TRONG DINH ĐỘC LẬP
Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập

Phòng họp


Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập


Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Phòng tiếp khách nước ngoài

dinh Độc Lập, 30/4/1975, Dương Văn Minh
Phòng họp nội các
dinh Độc Lập, 30/4/1975, Dương Văn Minh
Phòng liên lạc
dinh Độc Lập, 30/4/1975, Dương Văn Minh
Tổng đài điện thoại
dinh Độc Lập, 30/4/1975, Dương Văn Minh
Nhà bếp

dinh Độc Lập, 30/4/1975, Dương Văn Minh
Bếp Gas
Dạo chơi Dinh Độc Lập
Phòng tiếp khách trong nước.
Dạo chơi Dinh Độc Lập
Thư viện
Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Sân vườn trên tầng 2, phía sau phòng trình quốc thư và là 
khu sinh hoạt của gia đình Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Dạo chơi Dinh Độc Lập
Phòng ăn
Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Hành lang
Dạo chơi Dinh Độc Lập
Một góc phòng giải trí

Bức ảnh tượng trưng cho nông nghiệp VN thời ông Diệm

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Bức tranh vẽ Thúy Kiều gặp Kim Trọng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Cây xanh bao bọc chung quanh Dinh Độc lập

Ngày 30.4.1975 bọn cs Bắc Việt trong chiếc áo bọc Mặt Trận Giải Phóng miền nam đã tiến vào Dinh Độc Lập. Cũng từ đó Dinh Độc lập đã bị đổi tên thành "Dinh Thống Nhất"....Để rồi, bắt đầu cho thời  đấu tranh giai cấp và trã thù Quân Cán Chính miền nam VN qua các cuộc đổi tiền, đánh tư sản mại bản mà thực chất là cướp sạch tiền bạc của nhân dân miền nam, đưa gia đình quân nhân công chức của chế độ Cộng Hoà lên rừng thiêng nước độc bằng mỹ từ đi xây dựng vùng kinh tế mới....đưa toàn bộ quân nhân và công chức cao cấp vào trại tù mà chúng gọi là trại cải tạo.
Du lịch Dinh Độc Lập
Đàn bò đang tiến vào Dinh Độc Lập lúc 10 giờ 45 ngày 30/4/1975



XE-TANG-843.jpg

Dinh Độc Lập chính thức b đổi tên thành Hội trường Thống Nhất năm 1976 bởi những tên cướp trong cái gọi là đng csVNLịch sử về Dinh Độc Lập của miền nam đã khép lại từ đó!!

Sưu tầm và hiệu đính Võ Thị Linh, 26/10/2015