Powered By Blogger

 PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG VỊ VUA ANH MINH NHẤT TRONG SỬ VIỆT VỚI HAI LẦN CHIẾN THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC

Vua Trần Nhân Tông lãnh đạo Đại Việt từ năm 1278 - 1293, tên húy là Trần Khâm quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định). Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258. Vua tại vi 15 năm (1278-1293), sau đó nhường ngôi cho con là Anh Tông, rồi lên làm Thái Thượng hoàng 5 năm (1293-1298), xuất gia đi tu (1293-1308) và viên tịch ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), thọ 51 tuổi. 

Ông là vị vua thứ 3 của nhà Trần, được sử sách ca ngợi là một trong những hoàng đế anh minh nhất lịch sử Việt Nam. Dưới sự cai trị của vua Trần Nhân Tông, được xem là thời kỳ cực thịnh nhất của Đại Việt.

Hoàng tử Trần Khâm ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Với tư chất thông minh, ông đã nhanh chóng lĩnh hội được tri thức về trị quốc của Nho giáo, tinh thần nhân văn của Phật giáo. Nhà vua đã kế thừa được kinh nghiệm về nội trị và ngoại giao của các bậc tiên đế.

Ngay sau khi ông lên ngôi, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt cử Lễ bộ thượng thư Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông "không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không xin phép "thiên triều" Nguyên), mục đích là để ép Vua Trần sang triều kiến. Trần Nhân Tôn đối đãi tử tế với Sài Thung, nhưng kiên quyết không sang chầu.

Nói đến vua Trần Nhân Tông, trước hết là nói đến người anh hùng cứu dân, cứu nước và mở rộng cương thổ của Đại Việt. Ông là một nhà chiến lược có tài chỉ huy quân sự đã đứng ra lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua mọi thử thách, đưa việc  chống quân  Nguyên-Mông xâm lăng tới thắng lợi huy hoàng. Thái tử Trần Khâm được vua cha truyền ngôi lúc mới 21 tuổi, đúng vào thời kỳ quân Mông Cổ đánh bại Nam Tống lập ra triều Nhà Nguyên. Biết được dã tâm xâm lược của kẻ thù, nhà vua đã cùng quân dân Đại Việt gấp rút chuẩn bị mọi mặt để giữ nước bảo toàn lãnh thổ Đại Việt trước mộng xâm lăng của giặc phương bắc.

Dưới trướng vua Trần Nhân tông có rất nhiều người tài ba lỗi lạc giúp vua chống giặc bảo quốc trị an, vua giao cho họ những chức quan trọng. Tháng 12 năm 1282, vua phong Thái uý Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, Đinh Củng Viên làm Hàn lâm viện Học sĩ, Trần Khánh Dư làm Phó đô Tướng quân. Tháng 10 năm 1283, vua Nhân Tông tấn phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.

Vua kết hợp sức mạnh của tổng lực quốc gia, tạo thế đoàn kết toàn dân ở tầng cao nhất, nhà vua đã triệu tập  hai hội nghị lớn: Tháng 10 năm 1282, vua và Thượng hoàng mở hội nghị quân sự Bình Than họp với các vương hầu và bách quan bàn kế sách đánh giặc, cử các tướng lĩnh đem quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Tháng 12 năm 1284, vua triệu tập các vị bô lão đại diện cho nhân dân cả nước họp ở điện Diên Hồng để hỏi kế sách đánh giặc: "Các vị phụ lão đều nói đánh, muôn người cùng hô một tiếng”.

Qua sự kiện trên có thể thấy vai trò lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông vào năm 1285 và năm 1288 hết sức to lớn. Vua Trần Nhân Tông đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh giặc, xông pha tới nơi hiểm yếu để động viên khích lệ tướng sĩ. Trận Bạch Đằng giang năm 1288 được coi là trận đánh bại hoàn toàn giặc Nguyên - Mông, xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, là một trận đánh quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lẫy lừng trong lịch sử Việt Nam.

Đây là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt do Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy cùng với Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo chống quân xâm lăng Nguyên Mông. Quân Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng nề với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị loại khỏi vòng chiến, và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả Ô Mã Nhi, Phạm Nhàn và Phàn Tiếp cũng bị bắt sống và dâng lên Thượng hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, còn có 400 chiến thuyền của quân Nguyên rơi vào tay quân Trần. Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông

Trong trận này khi chiến thuyền quân Nguyên vướng cọc, sử chép: "Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả một khúc sông".

Trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, vua Nhân Tông đã thể hiện tài năng ngoại giao kiệt xuất, nhà vua đã thực thi việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, cách hành cử ngoại giao một cách tài tình,  đặc biệt đánh bại một quốc gia lân bang Trung Hoa lúc bấy giờ và các nước lân cận láng giềng khác.Để nước lớn TH không bị mất mặt, vua giữ lễ thường qua lại thăm viếng, cống nạp như trước. 

Với quân xâm lược khi chúng giày xéo non sông thì vua thẳng tay trừng trị, với kẻ thất trận thì rộng lượng khoan hồng. Tù binh quân Nguyên thất trận được cấp lương ăn và phương tiện về nước. Ngay sau chiến thắng quân Nguyên vua Trần Nhân Tông đã cho sai đốt hết ngay tại sân chầu những báo cáo của các ông quan trung thành về bọn phản bội đi theo giặc để yên lòng những kẻ phản trắc

ĐẠI VIỆT TÁI THIẾT VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH 

Khi đất nước sạch bóng quân thù, vua chú trọng đến khuyến khích sản xuất, tổ chức học hành thi cử, tuyển chọn nhân tài. Lúc yên giặc trở về kinh đô thì xuống chiếu ra lệnh đại xá cho thiên hạ. Nơi nào xảy ra chiến tranh bị giặc cướp phá thì miễn tô dịch… 

Sau đánh thắng quân Nguyên-Mông thắng lợi, Vua Trần Nhân Tông đã bắt tay vào việc tái thiết kinh tế và xã hội Đại Việt. Đặc biệt, các vùng bị chiến tranh tàn phá đều được miễn thuế và sưu dịch hoàn toàn.  Khoảng năm 1289–1290, việc sản xuất nông nghiệp bị đình trệ do sự chuyển biến thất thường của thời tiết. Năm 1289 có tình trạng "hạn từ tháng 6 mùa hạ đến tháng 10 mùa đông", sau đó "mùa hạ, tháng 4, sông Tô Lịch chảy ngược (sông này hễ có mưa to thì nước rút, tràn và chảy ngược)" và đến tháng 9 âm lịch năm 1290, nạn đói xảy ra khiến nhiều người phải bán ruộng đất và bán cả con mình làm nô tỳ cho người khác. Trước tình hình này, Vua Nhân Tông chỉ thị phát chẩn thóc cho người dân và bãi bỏ thuế đinh.Khi có nạn đói (1290) xảy ra, vua cho lấy thóc công  ra chẩn cấp cho dân nghèo và miễn thuế lệ. 

XUẤT GIA NHƯỜNG NGÔI CHO CON

Năm Quý Tỵ (1293), vua nhường ngôi cho con là Thái tử Thuyên (tức vua Anh Tông) lên làm Thái Thượng hoàng. Năm 1299, dù xuất gia tu hành nhưng Nhân Tông Hoàng đế vẫn luôn quan tâm tới việc nước, việc dân. Sử chép: Vào một ngày mùa Hạ năm Kỷ Hợi, Thượng hoàng Nhân Tông trở về kinh sư. Các quan không ai biết, vua Anh Tông thì uống rượu say, Thượng hoàng giận lắm, liền xuống chiếu cho các quan phải về Thiên Trường để điểm danh. Khi vua Anh Tông dâng biểu tạ tội, Thượng hoàng cho gọi vua vào, nói: "Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn dám như thế, huống chi sau này?".

Năm Giáp Ngọ (1294), tháng 7 Thượng hoàng xuất gia tại am Vũ Lâm ( nay thuộc  xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Tháng 7, Người chỉ đạo dựng am Ngự Dược xuất gia chuyên tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) trên núi Yên Tử.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Thượng hoàng đến Vũ Lâm vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền" Thời gian này vào khoảng tháng 7 năm Giáp ngọ (1294). Sang năm Ất mão (1295) Đại Việt sử ký toàn thư trang 540 lại ghi: "Mùa hạ, tháng 6, thượng hoàng về kinh sư. Đã xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, lại trở về vậy".

Vua Trần Nhân Tông tu hành ở Hành cung Vũ Lâm năm 1295, đến năm 1299 thì ra Thăng Long, rồi lên Yên Tử. Như vậy Hành cung Vũ Lâm Ninh Bình hoạt động ít nhất 41 năm (1258-1299). Xem thêm về Hành Cung Vũ Lâm ở Ninh Bình: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh_cung_V%C5%A9_L%C3%A2m

Năm Tân Sửu (1301), mùa xuân thành đạo, trở thành vị vua bụt của Đại Việt với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng (một trong mười pháp danh của Phật tổ). Ông sáng tác bài phú Đắc Lâm Tuyền thành đạo ca, sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mang sắc thái riêng của Đại Việt. Tháng 3, Điều Ngự Giác Hoàng đi thăm các nơi tìm hiểu mặt bằng tín ngưỡng trong dân chúng để chuẩn bị công cuộc giáo hóa.

Năm Quý Mão, Hưng Long thứ 11 (1303) tháng Giêng mùa xuân, Thượng hoàng đến cung Trùng Quang, chùa Phổ Minh, đến thăm chùa Vọc thôn Thành Thị, chùa Đô Quan - xã Mộc Nam, chùa Ông - xã Tượng Lĩnh thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Chùa Huyền Đô - huyện Mỹ Lộc, chùa Dưỡng Chính - xã Yên Khánh, Ý Yên thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Ca ngợi cảnh đẹp cố quý hương Phật Hoàng có thơ đề:

“…Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều dường có lại dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồn…”.

 (Thiên Trường vãn vọng)

GÃ CÔNG CHÚA MỞ RỘNG LÃNH THỔ ĐẠI VIỆT

Năm Bính Ngọ (1306) mùa Hạ, tháng sáu Vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Năm Đinh Mùi (1307) đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hoá mà trước đó vua Chiêm Thành là Chế Mân đem đất hai châu đó làm vật dẫn cưới nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo, Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ Ý đức của nhà vua để vỗ về yên dân. Nhà vua đặt mối bang giao với các nước láng giềng tạo sự hiểu biết, nhằm củng cố và mở rộng bờ cõi Đại Việt nay là vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế.

Cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông với những điểm nổi bật: Kiên quyết đập tan dã tâm xâm lược của quân Nguyên Mông - một đế chế mạnh nhất từ Âu sang Á; Trị vì đất nước bằng lòng khoan dung, đoàn kết toàn dân bằng hòa hợp và yêu thương. . 

VIỆN NGHIÊN CỨU TRẦN NHÂN TÔNG TẠI ĐẠI HỌC HARVARD

Để tạo cơ sở xâm nhập gián điệp vào nền kinh tế và kỹ nghệ hàng đầu của Hoa Kỳ. Hà Nội qua trung gian của một số GS đại học Học HK đã cho thành lập trong khuôn viên Trường Đại học Harvard (Mỹ), một Viện nghiên cứu Trần Nhân Tông, viện này cũng lập ra giải thưởng Trần Nhân Tông với chủ đề: “Hòa Giải và Yêu thương”. Giải thưởng này đã từng bị nhiều người được xét trao giải thưởng, nhưng từ chối không đến tham dự và nhận giải trong đơ có sư hổ mang Thích Nhất Hạnh....

Giống như Viện Khổng Tử ở Hoa Kỳ, Viện Trần Nhân Tông Academy hiện nay đang được đảng cộng sản vn thời Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, triệt để khai thác để làm phần mềm trong việc hoạt động gián điệp trên đất Hoa Kỳ. 

Ngày 19/6/2012, Viện Trần Nhân Tông chính thức ra mắt Giải thưởng quốc tế và Hội nghị Trần Nhân Tông về hòa giải yêu thương trên thế giới và Việt Nam tại website TranNhanTongprize.org. Sự kiện này sẽ được tổ chức vào ngày 22/9/2012 tại ĐH Harvard, Hoa Kỳ. Xem nguồn về xuất xứ của Viện Trần Nhân Tông: http://www.vietnamvanhien.org/VienTranNhanTong.pdf

DI NGÔN GIỮ NƯỚC CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG

"Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đằng, làm một nẻo... Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ đã biến giang sơn của ta từ cái tổ đại bàng thành tổ chim chích. Vậy nên các ngươi phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tai kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."

NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUÁT

Không chỉ là một tướng lãnh dũng mãnh ngoài mặt trận, ông còn là một chính khách ưu tú, một hoàng đế anh minh, vua Trần Nhân Tông còn là một triết gia, một nhà văn hoá kiệt xuất . Trong sự nghiệp văn hóa của mình, vua Nhân Tông đã để lại nhiều trước tác có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, triết học, lịch sử, Phật giáo.

Văn bia tại chùa Phổ Minh vào thời Hậu Lê còn ghi về việc tạc tượng Phật “tìm gốc to, thành công rực rỡ, tô vẽ tượng sư tử trang nghiêm và tượng tòa sen”. Trong chùa hiện còn lưu giữ bức tượng Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tay phải khỏa trần là tay chủ lo việc đời, lo cho quốc gia Đại Việt khi đã đánh tan giặc; tay trái lo việc đạo. 

Ngài đã an nhiên nằm nghiêng bên phải theo thế sư tử, đưa tâm thức vào vô lượng quang chư Phật, tức trở về tính sáng tự nhiên của bản tâm mà an nhiên thị tịch vào ngày mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử. 

Sau khi người mất thi hài đã được hoả táng. Theo truyền thuyết xá lỵ của Phật Hoàng thu được 21 viên, 7 viên táng ở Yên Tử (Quảng Ninh), 7 viên táng ở chùa Phả Lại (Hải Dương) còn 7 viên đưa về quê hương Tức Mặc, vua Trần Anh Tông đưa xá lỵ của Phật Hoàng vào hòm đá quý rồi đặt vào trong tháp Phổ Minh - một công trình kiến trúc độc đáo thời Trần còn được bảo tồn cho đến ngày nay. Tháp Phổ Minh tượng trưng cho hình tượng hoa sen mọc giữa hồ sen trong tư thế vươn cao, lan tỏa tâm linh của thiền phái Trúc Lâm nhập thế độc lập và tự chủ.      

Cuộc đời và sự nghiệp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông dù làm vua, làm Thái Thượng hoàng hay nhìn qua lăng kính của một vị chân tu, Người rất quan tâm đến chốn cố hương. Chùa làng đất phật còn truyền tụng câu ca dao:

“ Dù ai tranh bá đồ vương

Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này”

Tại tòa thượng điện chùa Phổ Minh an trí tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn đây là một di vật tiêu biểu thời Hậu Lê (TK XVII) còn lưu giữ được. Tượng được tạc theo thế tượng phật niết bàn to như người thật, tay trái chống đầu, tay phải đặt nhẹ lên trên đầu gối, mặt hơi nghểnh lên vẻ từ bi, thư thái. Áo cà sa hở một, vạt áo, hộ tâm đều được tạo nếp gấp mềm mại. Đây là một pho tượng nhập niết bàn cổ nhất được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. 

Xem kiến trúc chùa Phổ Minh:http://tuvanxaydungonline.vn/web/guest/tuvan-thu-vien p_p_id=thuviencontroller_WAR_FontEndTrangChuportlet&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-4&p_p_col_count=1&_thuviencontroller_WAR_FontEndTrangChuportlet_jspPage=%2Fhtml%2Fthuvien%2Fview_details.jsp&_thuviencontroller_WAR_FontEndTrangChuportlet_postid=5520

Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Phật phái Trúc Lâm Yên Tử là một Phật phái mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Năm 35 tuổi, sau khi lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến thắng cả ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, đất nước trở lại thái bình, Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông. Đến năm 41 tuổi Ngài vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, và trở thành Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm (竹林禪派)  – Yên Tử. Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n_ph%C3%A1i_Tr%C3%BAc_L%C3%A2m

Trúc Lâm vốn là hiệu của Trần Nhân Tông từ khi xuất gia ở động Vũ Lâm (Ninh Bình), đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền này. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang (gọi chung là Trúc Lâm Tam tổ). Thiền phái này được xem là tiếp nối nhưng là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỷ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi cùng với sự pha trộn ảnh hưởng của Tông Lâm Tế.


Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối

Từ cuộc đời, văn thơ đến giáo lý Trúc Lâm cho thấy Trần Nhân Tông luôn nung nấu tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, lòng dũng cảm "vô uý" (không sợ) của Thiền tông Trúc Lâm. Vua Trần Nhân Tông có rất nhiều những bài phú, thơ Hán Nôm rất đặc sắc, truyền tải đạo lý tuôn trào, trên từng câu chữ, điển hình như bài:

武 林 秋 晚

畫  橋  倒  影  蘸  溪  橫

,一  抹  斜  陽  水  外  明。

寂  寂  千  山  紅  葉  落,

濕  雲  和  露  送  鐘  聲。

陳 仁 宗

Vũ Lâm Thu Vãn

“Hoạ kiều, đảo ảnh, trám khê hoành,

Nhất mạt, tà dương, thuỷ ngoại minh.

Tịch tịch, thiên sơn, hồng diệp lạc,

Thấp vân, hòa lộ, tống chung thanh”.

Dịch nghĩa:    Thu Muộn Ở Vũ Lâm

“Chiếc cầu chạm vẽ, đảo bóng, vắt ngang dòng suối,

Một vệt nắng chiều, rực sáng, bên ngoài ngấn nước.

Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi,

Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng”.

Thơ ( đã ghi rằng:) Cuối Thu Ở Vũ Lâm

“Lòng khe in ngược, bóng cầu hoa,

Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà.

Lặng lẽ nghìn non, rơi lá đỏ,

Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa”.

Triều đại hưng thịnh của Đại Việt trải qua mười thế kỷ tồn tại của nhà nước quân chủ phong kiến tự chủ Việt Nam (từ thế kỷ X - XX), thời nhà Trần có vua Trần Nhân Tông nổi lên là một vị vua anh minh lỗi lạc, không chỉ có công trong việc giữ nước bảo vệ non sông, giống nòi, trùng hưng đất nước, mà còn sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Với những áng văn thơ đầy xúc cảm tạo nên dấu ấn đậm nét trong văn học Việt Nam thời Lý - Trần. 

Nhìn thời phong kiến, Đại Việt đã từng có một vị vua lẫy lừng đã đánh thắng hai lần giặc Nguyên Mông với trận đánh lịch sử để đời là trận Bằch Đàng vào năm 1288, ghi đậm thành tích chống giặc Mông Cổ .  Chỉ sau 15 năm làm vua, Trần Nhân Tông đã bỏ hết ngai vàng, vinh hoa phú quí xuất gia để bầu bạn với Phật Pháp, lấy thơ văn, thiền làm thú vui hạnh phúc cho những năm tháng còn lại.

Nhìn về chế độ phong kiến ngày xưa để so sánh với triều đại "hồ chí minh", một triều đại với nhiều lãnh đạo bán nước nhất trong sử Việt như: hồ chí minh. phạm văn đồng, lê duản, đổ mười, lê khả phiêu, nguyễn phú trọng - một lão đầu bạc già nua ốm yếu, đi đứng không vững, vừa ác với dân, vừa tham quyền cố vị, vừa bất tài, lại vừa hèn trước hoàng đế Tập Cận Bình của Trung Cộng, một triều đại mà  hết lãnh đạo này đến lãnh đạo nọ, thay nhau qùi dâng: Hoàng Sa - Trường Sa,  Ải Nam Quan, 1/3 Thác Bản Giốc, 11.000 km2 vùng vịnh Bắc Bộ, núi Lão Sơn, Bãi Tư Chính và nhiều phần đất dọc biên giới Việt Trung phía bắc VN cho giặc Tàu. Người dân thấy xấu hổ giùm cho cái đảng Pắc Bó với nhiều thành phần phản quốc - đi ngược với di huấn giữ nước của tổ tiên, cụ thể là làm ngược với di huấn của vua Trần Nhân Tông trong việc chống giặc giữ nước. Đám lãnh đạo bất tài này vì quyền lợi của nhóm thiểu số có nhiều lợi ích gắn bó với nhau trong đảng, đã làm nhục truyền thống đánh giặc giữ nước của tiền nhân và làm hổ thẹn con cháu Lạc Hồng.

Đã phản bội lại tổ tiên, quay lưng lại với các công trình giữ nước của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và những tiền nhân khác, đảng Mafia Ba Đình còn lấy Phật Hoàng ra để làm tiền người dân bằng cách cho trùng tu những di tích về Trần Nhân Tông để tạo các Tour du lịch và các dịch vụ kinh doanh khác về tâm linh, cũng như lợi dụng các địa danh lịch sử, tạo ra  thêm bãi cọc Bạch Đằng giả cho du khách đến viếng và thu tiền...Thật gớm ghiết cái đảng mặt dầy Ba Đình toàn là tham quan và phản quốc.

Biên khảo và tổng hợp lịch sử của Hậu Duệ VNCH Võ Thị Linh 17.10.2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét