Powered By Blogger


LỄ TỊCH ĐIỀN MỘT LỄ HỘI QUAN TRỌNG VÀO 
ĐẦU XUÂN CỦA VIỆT TỘC
Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia. Xã tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau:Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa để ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên Xã Tắc cũng có nghĩa là quốc gia. Từ ngàn xưa, người Việt cổ đã biết quí trọng nghề nông và coi đó là mạch sống chính của Việt tộc,  đến các thời đại tiếp nối sau này đều coi nông nghiệp là lãnh vực quan trọng vừa để nuôi dân vừa là trọng tâm cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Việc trồng cây lúa là một quá trình rất dày công của nhà nông.

Tháng giêng thì lúa xanh già
Tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng
Tháng tư cuốc đất trồng lang
Tháng năm cày cuốc tiếng nàng hò lơ
Tháng sáu làm cỏ dọn bờ
Tháng bảy trổ cờ, tháng tám chín thơm
Gặt về đạp lúa phơi rơm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày
Lúa khô giê sạch cất ngay
Chỗ cao ta để phòng ngày nước dâng
Mùa đông mưa bão nhiều lần
Nàng xay, chàng giã cùng ngân tiếng hò
Tháng mười cày cấy mưa to
Trông trời, trông đất cầu cho được mùa
(ca dao)

NGƯỜI VIỆT CỔ BIẾT TRỒNG CÂY LÚA TỪ BAO GIỜ?

Theo các bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như Đại Việt Sử Ký, Khâm Định Việt Sử, An Nam Chí Lược, Việt Sử Lược thì nguồn gốc dân tộc Việt Nam như sau “Vua Minh cháu bốn đời vua Thần Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh, kết hôn với một nàng tiên đẻ ra một người con tên là Lộc Tục. Vua lập đài tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc Tục làm vua phương Nam…" (Trần Đại Sỹ, Từ Triết Học Đến Huyền Thoại Nguồn Gốc Tộc Việt, Hai Mươi Năm Văn Học Hải Ngoại, tr.1046). Thần Nông sống cách đây vào khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc.  nhiên, cũng cần nhác lại sách" Hậu Hán thư, quyển 176, Liệt truyện, Nhâm Diên"có đề cập đến việc hai tên thái thú Tích Quang và Nhâm Diên (đầu thế kỷ 1 thời Bắc thuộc lần I), đã dạy cho dân Việt chúng ta trồng lúa và dụng cụ canh tác. Đây là một sự xuyên tạc và đánh tráo lịch sử rất trắng trợn của Đại Hán. Một điều đáng buồn là trong sách sử của Trần Trọng Kim, quyễn I, trang 38 cũng ghi điều này. Như vậy, cho thấy sử gia Trần trọng Kim  ông vì thiếu các sử liệu để tham khảo và nghiên cứu, nên vô tình tiếp tay với các sử gia TH viết sai về việc người Việt học được nghề làm ruộng từ hai tên thái thú Tích Quang và Nhâm Diên. Cho tới nay một số sử của CHXHCNVN viết cũng chép lại từ những cái sai của các sử gia đi trước. Người Việt cổ đã biết trồng lúa gạo từ trước khi Tích Quang và Nhâm Diên đến làm thái thú ở VN trên 2700 nàm, vì là dòng dõi của Thần Nông. Mặt khác VN chính là cái nôi của nền văn minh lúa nước của thế giới, người Hán đã học cách trồng lúa nước từ người Việt cổ. Các nhà nghiên cứu khoa học như  Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II (1924-2014) đã từng phát biểu rằng: Tôi đồng ý với Sauer là việc gây giống cây lúa nước đầu tiên trên thế giới đã được thực hiện bởi người dân thuộc nền Văn hóa Hòa Bình ở vùng Đông Nam Á. Chẳng phải là điều ngạc-nhiên đối với tôi nếu như thành tích đó đã khởi sự sớm, từ 15.000 năm TCN.
Về nguồn gốc, dân Việt là con cháu họ Thần Nông này đã có nhiều học giả Việt Nam tranh luận. Có nhiều học giả cho rằng Thần Nông là người Tầu, ngược lại, rất nhiều chứng minh cho thấy Thần Nông là người Việt. Tóm lại: qua những chứng minh từ phạm trù tín ngưởng, ngôn ngử Việt,  Thần Nông-Viêm Đế là vị thần sáng thế của Việt Nam, không phải của Trung Hoa, xem chứng minh: http://www.mevietnam.org/HuyenSu/nxq-thannong.html
Người Việt rất quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt sử ký toàn thư tr 131, có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2.879 năm trước Công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa…Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh chưng bánh dày thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau.

Năm 111 trước Công nguyên, nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông, Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hãm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…”.

LỄ TỊCH ĐIỀN NGÀY XƯA ĐƯỢC TỔ CHỨC VÀO ĐẦU XUÂN

Lễ Tịch điền thường được tổ chức vào mùa xuân. Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng Tịch điền gồm có các chương: Điền lệ cày ruộng Tịch điền, công việc cày ruộng Tịch điền, lời chúc cho lúa tốt…Tịch điền là một lễ lớn quan trọng của Việt tộc vào dịp đầu xuân, mang ý nghĩa khuyến nông do các vị vua trực tiếp thực hiện.

Rủ nhau bước xuống ruộng vàng
Nơi lộng tiếng hát, nơi vang tiếng cười
Những trông lúa chín mà vui
Bông ngã bông cúi, bông thời gió lay
Lưỡi liềm bán nguyệt cầm tay
Lúa vàng nghìn gốc, muôn cây thu về
Bõ khi mưa nắng dãi dề
Bõ công dậy sớm, thức khuya bấy chầy
Trồng cây ăn quả có ngày
Đất kia đâu phụ công này mà lo
(Ca dao)


Lễ Tịch điền là một lễ hội mang tính khuyến nông do nhà vua đích thân khai mạc và chủ lễ.  Khởi đầu là vua sẽ xuống ruộng  đi cày ba đường , các quan trong triều cũng lần lượt xuống ruộng cày một vài đường nhằm khích lệ nông dân chăm lo sản xuất, phát triển nông nghiệp, đặc biệt là phát triển lúa nước.


Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn cũng có đoạn ghi: “Mùa xuân. Nhà vua cày ruộng tịch điền. Ban đầu, nhà vua cày ruộng ở Đội Sơn, được một lọ vàng; sau lại cày ở núi Bàn Hải, được một lọ bạc; do đó đặt tên là "ruộng Vàng, ruộng Bạc".
Đội Sơn hay Đọi Sơn, Long Lĩnh là tên gọi khác của núi Long Đội nay thuộc  xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Còn núi Bàn Hải (hay núi Bà Hối) thì không rõ ở đâu nhưng theo một số nhà nghiên cứu thì chỗ đó có thể gần với khu vực núi Đọi Sơn

Lễ Tịch Điền đầu tiên trong lịch  sử VN được ghi nhận đã là do vua Lê Đại hành tổ chức vào  đầu xuân năm 987. Sau đó đến thời nhà Lý, lễ này được tổ chức long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của triều đình vào mùa xuân. Đến đời Trần, do nạn giặc nhà Nguyên nên lễ điền không mấy quan trọng như trước. Tuy nhiên, khi có điều kiện, nhà vua vẫn đích thân làm lễ. Đến các thời nhà Hồ, thì hầu như phong tục này không còn được giữ nguyên vẹn và trịnh trọng như lúc ban đầu. Sang thời nhà Nguyễn, vua Gia Long đã quy định ruộng tịch điền và vua Minh Mạng khôi phục lại nghi lễ này và coi như một đại lễ quan trọng

Lê Đại Hành tên thật là Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941), xuất thân từ nhà thường dân, cha là Lê Mịch làm nghề đơm đó, mẹ là Đặng Thị Sen, bà làm công quả quét sân chùa, do đó với có câu truyền tụng về vua như sau: “Cha đó cá, mẹ lá chùa”. Sách Đại Việt sử lược, tác phẩm sử học cổ nhất còn giữ được đến ngày nay có đoạn cho biết về sự kiện cày tịch điền như sau: “Năm Đinh Hợi, hiệu Thiên Phúc năm thứ 7 (987) vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở Đội Sơn, được một lọ vàng bạc, cày ở núi Bà Hối được một lọ nữa, vua đặt tên đất đó là ruộng Kim Ngân”.

Tóm lại lễ Tịch Điền là một lễ lớn và quan trọng vào đầu xuân của người Việt chúng ta, được đích thân người lãnh đạo đất nước chủ lễ . Việc làm này của các vua quan ngày xưa, cho thấy  từ thời lập quốc cho đến các thời quân chủ phong kiến sau này, vua quan biết đưa việc phát triển nông nghiệp lên hàng đầu ( quốc sách), nên đã cố gắng tạo ra một hình ảnh rộn rịp vào đầu xuân nhằm khuyến khích và nhắc nhở người dân phải luôn biết chú trọng đến việc phát triển cây lương thực chính cho Việt tộc. 

Trong nền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa người lãnh đạo của nền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa  cũng đã chú ý đến tầm  quan trọng của cây lúa nước, chính Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu cũng đã từng xuống ruộng để cấy mạ trong ngày lễ cấp phát bằng khoán cho nông dân được tổ chức tại Cần Thơ ngày 26.3.1970. Nói về sự xuất cảng về lúa gạo của miền nam VN trong nền đệ nhất cộng hòa trong những năm chưa bị bọn cộng sản phá hoại đã đạt đến mức xuất cảng hàng nhất nhì thế giới. 


Theo biểu đồ, vào thời điểm 1960, trong số 10 quốc gia Á châu, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, South Vietnam, 223$) có GDP đầu người đứng sau Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippines (257$), nhưng nhiều hơn Nam Hàn (155$), hơn gấp đôi Thailand (101$), gấp 2,4 lần Trung quốc (92$), gấp 2,7 lần Ấn độ (84$), và gấp 3 lần Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (North Vietnam, 73$). Trong thời gian từ 1954 đến 1975, năm 1960 là năm VNCH có nền kinh tế huy hoàng nhất. Vào năm này VNCH xuất cảng (xuất khẩu) tổng cộng 84 triệu US$, gồm 2 sản phẩm chánh là cao su (40 triệu US$) và gạo (27,7 triệu US$). Riêng về xuất cảng gạo, năm 1960 là đỉnh cao nhất kể từ 1955 với khoảng 340.000 tấn. Vào những năm đó Bác Việt phải nhập cảng gạo của Trung Cộng để ăn.
Đến nay, sau 43 năm chiếm đóng miền nam, các đầu lĩnh bất tài Ba Đình và những đỉnh cao trí tuệ vì không thể qui hoạch một chiến lược phát triển tổng thể vùng đồng bằng sông Cữu Long trong việc chăm sóc cây lúa nước nên tới nay VN vẩn chưa có một thương hiệu uy tín trên thị trường lúa gạo thế giới, gạo VN đã bị đẩy lùi khắp mọi nơi trên thế giới, thua luôn các thương hiệu như Campuchia và Lào về một món hàng xuất khẩu mà từ lâu luôn dẩn đầu thế giới. Gạo thành phẩm của VN hiện nay đều thua xa các mặt hàng gạo của Thái lan, Cam Bốt và Lào.
Bất hạnh cho VN, bị một đám chăn bò cai trị nên môi sinh bị phá hủy, nên kinh tế quốc dân đang bị phá sản toàn diện. Nợ công vượt trần, các ngân hàng được đảng bảo kê cho khai phá sản để quỵt tiền của dân. Nhà nước tìm hết cách này đến cách khác để vơ vét tiền đô và vàng trong dân. Tương lai VN là một đường biểu diễn đang tuột từ đỉnh cao nhất của Parabol về hướng thấp nhất.Đây là nguy cơ dẩn đến mất nước vào tay của Trung Cộng nếu đồng bào chúng ta không sớm thức tỉnh đê giải thể chế độ bất tài hại dân bán nước làm tay sai cho Tàu Cộng.

XEM THÊM:
MIỀN NAM NGƯÒI CÀY CÓ RUỘNG -MIỀN BẮC NGƯỜI CÀY CHO ĐẢNG
http://kimanhl.blogspot.de/2014/06/mien-nam-nguoi-cay-co-ruong-mien-bac.html

Nguyễn Thị Hồng, 28.1.2018
LỊCH SỬ BÓNG ĐÁ VNCH
43 năm nhìn lại để thương tiếc và chúng ta cần vinh danh sự oai hùng của nền Túc Cầu VNCH, so với sự xuống dốc thê thảm của nền bóng đá thời cộng sản ngày nay, thể thao có liên quan tới chính trị không ? dạ xin thưa là CÓ. Cộng sản và những kẻ có dã tâm, chúng lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để giấu nhẹm hết những việc làm rạng danh dưới thời VNCH, trong đó có lãnh vực thể thao, cho tới ngày hôm nay, chúng không bao giờ cho thế hệ trẻ và những người đang sống ở cái XHCN này biết rằng: trước 1975 miền nam Việt Nam đã làm cho hầu hết các nước ở khu vực Á Châu rất ngưỡng mộ và khâm phục chúng ta về môn thể thao này, đó là hành động chính trị, một hành động đê tiện và bạc nhược chúng ta cần phải lên án, bởi vì với cộng sản cái gì của VNCH đều là xấu đều là không tốt, dân tộc chúng ta thật là bất hạnh, và ánh sáng của bầu trời VN sẽ không bao giờ sáng, nếu vẫn bị cộng sản xỏ mũi trâu dẫn dắt, hay khi đói được chúng quẳng cho miếng xương như chó gặm, thì còn lâu chúng ta mới thấy được ánh sáng dưới bầu trời này..........
Tôi xin dừng tại đây vì bài viết này chủ yếu tập chung vào nền Túc Cầu dưới thời VNCH (miền Nam Việt Nam)
Tại miền Nam Việt Nam, vào cuối thập kỷ 1950, đội bóng của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã trở thành một trong 4 cường quốc bóng tròn châu Á (có 10 đội tham dự), khi lọt vào vòng chung kết giải Vô địch châu Á 1960 cùng với Nam Hàn, Israel, Trung Hoa (do Hồng Kông đại diện).
Năm 1954, đội Ngôi sao Gia Định giải tán, nhóm cầu thủ về đầu quân cho AJS (Association de la Jeunesse Sportive), hoặc đội Cảnh Sát.
Đội bóng của VNCH đã đoạt chiếc huy chương vàng bộ môn bóng đá tại SEA Games 1959 và dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên Karl-Heinz Weigang người Đức, đã đoạt Cúp Merdeka lần thứ 10 do Malaysia tổ chức năm 1966.
Đội AJS, đội Cảnh Sát, đội Tổng Tham mưu (của Quân lực Việt Nam Cộng hòa) và đội Quan Thuế luân phiên thống trị bóng đá miền Nam cho đến năm 1975.
Giải vô địch thế giới
Năm 1974: Vòng loại cho Giải thế giới, khu vực châu Á
VNCH - Hàn Quốc: 0-4
VNCH - Hồng Kông: 0-1
VNCH - Thái Lan: 1-0

(năm này là năm cuối cùng của miền nam VN về thể thao, chúng ta phải lo đối phó với giặc thù cộng sản, có lẽ vì thế mà chúng ta ta không dốc hết tâm để thi đấu cho giải này, đó cũng là nỗi bất hạnh của dân tộc VN)
Việt Nam Cộng hòa tại Olympic Melbourne Australia 1956

Thế vận hội

Năm 1963: Vòng loại cho Thế vận hội Tokyo 1964
VNCH - Israel: 0-1 (tại Sài Gòn)
Israel - VNCH: 0-2 (tại Tel Aviv)
Hàn Quốc - VNCH: 3-0 (tại (Seoul)
VNCH - Hàn Quốc: 2-2 (tại Sài Gòn)

Năm 1968: Vòng loại cho Thế vận hội México 1968
VNCH - Philippines: 10-0
VNCH - Đài Loan: 3-0
VNCH - Liban: 1-1
Nhật Bản - VNCH: 1-0
Hàn Quốc - VNCH: 3-0
Giải vô địch châu Á

Lần 1: năm 1956 (tại Hồng Kông), VNCH chỉ cần thắng Malaysia để vào vòng chung kết. Tại vòng chung kết:[1]
VNCH - Israel: 1-2
VNCH - Hồng Kông: 2-2
VNCH - Hàn Quốc: 3-5
VNCH xếp hạng 4


Lần 2: năm 1960 (tại Hàn Quốc), VNCH đứng đầu bảng ở vòng loại, tại vòng chung kết:[2]
VNCH - Hàn Quốc: 1-5
VNCH - Đài Loan: 0-2
VNCH - Israel: 1-5
VNCH xếp hạng 4
Á vận hội (ASIAD)

Kỳ I: năm 1951, (tại New Delhi), VNCH không tham dự
Kỳ II: năm 1954, (tại Manila), VNCH không vượt qua vòng loại:
VNCH - Philippines: 3-2
VNCH - Hồng Kông: 1-2
Kỳ III: năm 1958, (tại Tokyo)
VNCH - Pakistan: 1-1
VNCH - Malaysia: 6-1

Kỳ IV: năm 1962, (tại Jakarta), VNCH đứng thứ 4
VNCH - Ấn Độ: 2-3 (ở trận bán kết)
VNCH - Malaysia: 1-4 (ở trận tranh huy chương đồng)
Kỳ V: 1966, (tại Băng Cốc), VNCH không vượt qua vòng loại
Kỳ VI: 1970, (tại Băng Cốc), VNCH không vượt qua vòng loại
Cúp Merdeka

Cựu tuyễn thủ bóng đá VNCH

Cúp Merdeka do Malaysia tổ chức, thường mời một số đội mạnh châu Á nên có giá trị như một giải châu Á thu nhỏ.
Kỳ 10, năm 1966, 12 đội mạnh nhất Á Châu tham dự: VNCH đoạt cúp. Huấn luyện viên: Karl-Heinz Weigang (Đức).
SEA Games

Kỳ I: năm 1959, (tại Bangkok), VNCH đoạt huy chương vàng
VNCH - Thái Lan: 3-1 (về nhất và đoạt cúp vô địch)
Kỳ II: 1961, (tại Rangoon), VNCH đoạt huy chương đồng (về hạng ba)
VNCH - Thái Lan: 0-0
VNCH - Lào: 7-0

Kỳ III: 1965, (tại Kuala Lumpur), VNCH đoạt huy chương đồng
VNCH - Singapore: 4-1 (về hạng ba)

Kỳ IV: năm 1967, (tại Bangkok), VNCH đoạt huy chương bạc
VNCH - Miến Điện: 0-1 (về hạng nhì)

Kỳ V: năm 1969, (tại Rangoon), VNCH hoà Thái Lan, đoạt huy chương đồng (về hạng ba)
Kỳ VI: năm 1971, (tại Kuala Lumpur), VNCH hoà Thái Lan, huy chương đồng (về hạng ba)
Kỳ VII: năm 1973, (tại Singapore), VNCH đoạt huy chương bạc
VNCH - Miến Điện: 2-3 (về hạng nhì )

Kỳ VIII: năm 1975, (tại Bangkok), Việt Nam Cộng hòa không tham dự (nếu năm này mà VNCH còn có thể đoại cúp và vô địch Á Châu một lần nữa cũng không chừng, vì năm 1973 trong trận tranh chung kết đã đoạt được huy chương bạc về nhì)
Xin quí vị tìm hiểu thêm những link dưới đây, và hãy coi những video để xem coi những sự huy hoàng mà VNCH đã làm cho dân tộc VN chúng ta, mong lắm thay một ngày gần đây dân tộc VN cũng giống như VNCH năm xưa.
Theo Tho Nguyen


CÂY MÙA XUÂN CHIẾN SĨ NĂM XƯA
Tết đến không chỉ là vui chơi hưởng thụ mà còn là dịp để con cháu nhớ đến ông bà tổ tiên, nhớ đến công lao giữ nước của người xưa , nối lại những huyền thoại của chiến thắng Ðống Ða một nghệ thuật giử nước của ông cha. Và cũng là dịp để người hậu phương chia sẻ ân tình, ngọt bùi với những chiến sĩ bảo quốc an dân đang hành quân vào lúc xuân về khắp nơi trên 4 vùng chiến thuật. Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ là một nét văn hóa đẹp trong ngày tết của đại gia đình QL.VNCH. Đó chính là tấm lòng của hậu phương gởi đến từng anh lính chiến ngoài tiền tuyến, nó còn là một sinh hoạt tết của người dân miền Nam, nói lên tình quân dân khắn khít, người hậu phương hướng về người lính xa trường trong dịp xuân về để chia sẻ những gian nguy nhọc nhằn với người chiến sĩ Cộng Hòa. Cây mùa xuân chiến sĩ nói lên sự thương mến của hậu phương với những người lính khi mai vàng nở nhưng không thể về để xum họp với gia đình vì họ đang phải bôn ba ngày đêm, khắp nơi trên lãnh thổ 4 vùng chiến thuật để ngăn cản sự phá hoại của Cộng sản phương Bắc.
Người lính chiến vào những năm chiến tranh, hầu hết là ăn Tết trên chiến trường, rất ít khi được cùng gia đình hưởng những ngày Xuân nên chính quyền VNCH đã cùng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tổ chức ra những Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ tại nhiều tỉnh, thị xã để người hậu phương có dịp chia sẻ buồn vui cùng người lính đang giữ an ninh cho đồng bào hậu phương được hưởng sự an vui.”
Mừng xuân tôi không quên bóng anh
Từ lâu bao nhiêu mến thương
Ơ tình thương hai ta cùng lo giữ quê hương
Tay súng thép cứng giữa non xanh
Bước anh đi trên nhịp đàn.....

Mừng xuân tôi không quên chốn xa
Người đi trong muôn sắc hoa
Ơ cành hoa thương yêu đầy sương gió bao la
Sau tấm áo lớn sắc cây xanh
Khắp quê hương hay rừng già
Biết bao mến thương dâng trong mùa hoa
(nhạc Y vân sáng tác, ca sĩ Ngọc Minh)


Người chiến sỉ VNCH có được 20 mùa Xuân, trong đó chỉ vỏn vẹn 4 mùa xuân là đầm ấm, hạnh phúc và thanh bình với gia đình trong những năm đầu của hiệp định Genève 1954. Đó chính là những mùa Xuân Dân Tộc đích thực trong thuyền thống nhân văn của mấy ngày đầu năm của miền Nam VN. Bao nhiêu năm đã qua đi, người lính VNCH xưa ít khi được hưởng Tết trong không khí đoàn tụ gia đình, nay cho dù có phải ở ngoài nước, yên ấm với người vợ hiền chung thủy, với những đứa con có đứa đã theo nghiệp binh đao như cha anh, nhưng vẫn không quên được những giây phút giao mùa trong Ðêm Trừ Tịch nơi chiến trường xưa, xúc động trước chiếc bánh còn ấm hơi người hậu phương, trước lá thư kín 4 trang giấy học trò của người em gái hậu phương chưa một lần gặp mặt.
“Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ xưa” là hình ảnh đậm nét trong lòng một thế hệ mà nay đều đã trọng tuổi. Mùa xuân về là những lúc hình ảnh đẹp của một thời chinh chiến lại trở về, “người em gái hậu phương,” những cô nữ sinh trinh trắng, những cô thôn nữ dịu hiền trên khắp đồng ruộng miền nam cặm cụi viết từng lá thư, gom góp từng đồng bạc quà sáng, tất tả trong các chợ Tết để mong có được một chút quà Tết cho những người lính chiến VNCH “Xuân này con không về” có được chút hơi ấm gia đình nơi tiền đồn heo hút hay trấn giữ trận địa mà địch quân lúc nào cũng có thể vi phạm lệnh hưu chiến mà cả hai bên đã đồng thuận để người dân VN được hưởng cái Tết trong thanh bình, để hậu phương nơi nơi đều nghe được tiếng pháo ròn tan thay vì “đêm đêm phải nghe tiếng đại bác”. Những người lính ấy, có thể là người anh trong gia đình, người em vừa ra khỏi cổng trường trung học, người yêu chưa kịp cưới, người chồng vừa “cưới nhau xong là đi”... Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ là một hộp thư lớn gom góp biết bao ân tình giữa người hậu phương với người nơi tiền tuyến.

Nỗi niềm Xuân xưa!
( Thơ của thi sĩ Trần Tố Ngọc)
Một thời Xuân thắm tự do
Đón Xuân với cả trời mơ thanh bình!
Một thuở Việt Nam Quang Vinh!
Hậu phương Tiền tuyến nghĩa tình gởi trao!
Mùa Xuân thơ nhạc ngọt ngào
Quân Dân - Cá Nước... Đồng bào yêu thương!
Tết Xuân chiến sĩ biên phòng
Hậu phương chăm chút ấm lòng đồn xa!!!
Lính quên được nỗi nhớ nhà
Mẹ Cha con vợ... đợi chờ đoàn viên!
Tình yêu Tổ quốc thiêng liêng
Người chiến sĩ gác niềm riêng gia đình
Sẳn sàng vì nước giữ gìn
Mậu Thân sáu tám hy sinh lặng thầm!!!
Chúng ta mãi mãi tri ân
CÂY MÙA XUÂN CHIẾN SĨ cần mỗi năm!
Người khuất dâng nén hương tâm!
Thương binh cơ cực Việt Nam đói nghèo
Dẫu nơi đất khách dõi theo
Chút tình ơn nghĩa trong veo tấm lòng!
Để Xuân vẫn mang sắc hồng
Tin yêu hy vọng nồng nàn ngày Xuân!
Những mùa xuân yên ấm của miền nam bị biến mất kể từ khi Hồ chí Minh nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế bắt đầu mở cuộc chiến xâm lược miền nam.Từ năm 1959 họ Hồ đã cho thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh, tức đường Trường Sơn, để đem quân và vũ khí vào miền Nam VN, thực hiện bước đầu mộng nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á. Và đến năm 20.12.1960 cs BV đã cho ra đời một công cụ ngoại vi gọi là " Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam", chiến cuộc tại miền Nam lần lần leo thang một cách khốc liệt mãi cho đến ngày 30.4.1975.
Thời gian nầy những người chiến sỉ VNCH đã phải hy sinh dáng xuân của ngày đầu năm mới để bảo vệ sự ấm áp cho đồng bào mình trong lúc mai vàng nở rổ và khoe sắc trên khắp nẻo đường đất nước. Nhìn lại tất cả mùa Xuân từ năm 1954 đến năm 1975 mới thấy người chiến sỉ cộng hoà mất mát rất nhiều những mùa xuân dân tộc, vì tình nước trên trên tình nhà.

NIỀM VUI TỪ KÝ ỨC 

Cứ mỗi độ xuân về tết đến
Hình ảnh cây mai vàng lại gợi nhớ quê hương

Cây mùa xuân Chiến Sĩ 
Một danh từ yêu thương
Vẫn tồn tại trong tâm thức 
Người Miền Nam xưa cũ 

Thương những câu chúc hậu phương gởi tiền tuyến
Làm ấm lòng chiến sĩ trấn biên cương
Quyết một lòng gìn giữ quê hương
Cho mẹ, cho em, cho đồng bào được yên vui no ấm

Cây mùa xuân Chiến Sĩ 
là nỗi niềm biết ơn sâu lắng
Là sự yêu thương vô hạn bến bờ
Như niềm thôi thúc trên những bước quân hành
Của người lính Việt Nam Cộng Hòa chính khí

Dù đã qua mấy mươi năm dài phiêu dạt
Người em gái hậu phương xưa vẫn giữ mãi trong tim
Bài thơ ân tình muốn gởi đến các anh
Chờ tết đến treo lên ... 
Bóng hình người CHIẾN SĨ   
Trên cây mùa xuân 


( Con Gái Huế TNMT )

Mừng xuân Mậu Tuất 2018, không quên nhớ về các thương phế binh, cô nhi quả phụ tử sỉ VNCH đang còn sinh sống cơ cực tại quê nhà, kính chúc quý Bác, Chú, Cô, Dì...cựu chiên binh có một năm mới đầy sức sống và một niềm tin vững chắc vào ngày toàn thắng của người Việt tự do trên quê hương VN. Dân chủ tự do và mùa xuân truyền thống nhất định sẽ trở lại về trên quê hương VN.
Chúng ta, những công dân VNCH không quên đốt nén hương lòng, tưởng nhớ đến công ơn của các chiến sỉ của chúng ta đã vị quốc vong thân trong suốt cuộc chiến vừa qua.


Hậu duệ VNCH Lê Kim Anh 26.1.2018
TẠI SAO ĐẢNG VẨN LUÔN LO SỢ 
TIẾNG PHÁO ĐẦU NĂM?
Người Việt cho ràng tiếng pháo là một âm thanh rộn rã làm vui nhà vui cửa trong ba ngày Tết. Không có tiếng pháo ầm ĩ, không khí Tết như thiếu thốn một thứ gì đó khó tả, có người còn cho mùi pháo chính là mùi của Tết, không có pháo là không có Tết.
Người tin dị đoan còn cho rằng đốt pháo cũng là một cách dự đoán tương lai. Nhà ai đốt pháo không nổ đều, rời rạc thì việc làm ăn trong năm mới sẽ không suôn sẽ thuận lợi, tiếng pháo pháo nổ giòn tan, xác pháo đỏ thì mọi việc trong năm mới sẽ nhiều thành công ..... Đám cưới mà đốt pháo không nổ cũng là một điềm xui. Trong đám cưới, người ta đốt pháo khi họ nhà trai đến họ nhà gái, và khi họ nhà gái đưa dâu đến nhà trai. Trong lễ mừng thọ, mừng thăng quan, mừng sinh con trai, mừng tân gia, người ta đốt pháo trước khi cử hành lễ hoặc đốt pháo khi có những quan khách quan trọng đến. Trong ngày Tết, người ta đốt pháo lúc giao thừa và sau đó là suốt ba ngày Tết. Khi đến nhà ai chúc Tết, khi vào cổng, khách cũng có thể đốt một phong pháo để chúc mừngRồi từ ngày đảng chiếm miền nam tiếng pháo đã lặng lẽ ra đi..
Đúng là đảng quỉ... âm binh 
Ngày xuân rất sợ pháo đình đùng vang! 
Xua đi cái lũ hung tàn
Rước Xuân về với vô vàn Tết vui! 

Mậu Thân sáu tám bùi ngùi 
Giao thừa pháo nổ... vập vùi mùa Xuân!!! 
Cái đảng cộng sản lưu manh 
Phá bỏ qui ước để giành chiến công! 

Sợ gậy ông đập lưng ông? 
Nên cấm đốt pháo tưng bừng ngày Xuân! 
Tiếng pháo âm ỉ lòng dân
Làm sao đảng diệt Mậu Thân não nùng!!! 

Năm mươi năm còn hãi hùng!!! 
Củi đậu nấu đậu... Huế vùng tang thương!!! 
Bốn ba năm Xuân thê lương!!! 
Bao giờ mới thật quê hương thanh bình??? 

Đón Xuân dân tộc lung linh 
Đì đùng tiếng pháo tự tình niềm vui??? 
Người phương xa hết bồi hồi 
Con không xa Mẹ... Cha cười cùng con!!! 

Chẳng còn Tết đến héo hon
Nhìn Mai trên ảnh lệ hồng tuôn rơi!!! 
Xứ người Xuân đến buồn ơi! 
Hẹn Xuân năm tới đất trời Việt Nam!!!
(Thi sĩ Trân Tố Ngọc)


PHÁO XUÂN MIỀN NAM VN TRƯỚC NĂM 1968
Theo lời kể của các bác, Cô, Chú, dì sống ở miền nam trước năm 1968, đều cho rằng đó là những năm có những mùa xuân yên bình, khi hoa mai bắt đầu nở, vào dịp giao thừa và 3 ngày đầu xuân nhà nhà.. nơi đâu cũng có tiếng pháo đì ..đùng từ thành thị tới thôn quê. Hình ảnh của đầu xuân yên vui đã bị đảng và đoàn quân gọi là "giải phóng" đã lợi dụng gây tang tóc đau thương cho người dân, chúng đã từ dạo đó cướp mất đi cái mùi Tết thiêng liêng đầy tình tự dân tộc của người miền nam, sau đó chỉ còn lại những cái tết buồn vì chiến tranh ngày càng leo thang. Người lính VNCH cũng mất cảnh yên bình hạnh phúc trong những dịp xuân về ...những ngày đầu xuân là những ngày phải hành quân đi khắp đó đây để bảo vệ sự an bình cho người dân ăn Tết
".... Ôi nhớ xuân nào thuở trời yên vui

Nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi
Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng
Trông bánh chưng ngồi chờ sáng
Đỏ hây hây những đôi má đào....."
(bày hát "Xuân nầy con không về")


CỘNG SẢN SỢ TIẾNG PHÁO ĐẦU NĂM
Kể từ năm 1995 đến nay là 23 năm dân VN cũng không được đảng cho phép đốt pháo mừng xuân nại lý do để giữ gìn trật tự an ninh mội trường không bị xâm hại. Đây là lý do cùn của các tên khát máu Ba Đình, đất nước thanh bình không chiến tranh mà dân không được có cái hạnh phúc tối thiểu là đốt pháo đón tết trong 3 ngày đầu xuân.
Đám đầu lĩnh Ba Đình sợ pháo vì trước 1975, vào những dịp đầu xuân ngươi miền nam đốt pháo cúng giao thừa và đốt trong 3 ngày đầu năm, bọ người khát máu này đã lợi dụng tiếng pháo để đi cướp bóc phá hoại hoặc ám sát các quân nhân , cán bộ quan trọng trong bộ máy cầm quyền miền nam. Cao điểm là đầu năm Mậu thân 1968, lợi dụng tiếng pháo giao thừa của đồng bào miền nam ăn tết, bọn người phi nhân này đã theo lệnh của tên đồ tể HCM tấn công 41 tỉnh thành phố miền nam VN. Tuy phía cộng sản đề nghị hưu chiến ngày đầu năm để đồng bào ăn tết, nhưng sau đó chúng bất chấp hiệp định được ký kết với VNCH ngưng bắn trong mấy ngày đầu năm 1968, chúng tấn công khắp mọi nơi trong toàn lảnh thổ VNCH. Gây không biết cảnh chết chóc tàn phá khắp nơi, nặng nhất là thành phố Huế với trên 5000 người dân vô tội bị giết chết. Đoàn quân khát máu cs Bắc Việt này đã điên cuồng giết hại 14.000 thường dân khắp miền nam. Đó là không tính số quân nhân thiệt mạng của đôi bên, 84.983 nhà của bị hư hại chưa kể các thiệt hại về kinh tế.
Sau khi chiếm được miền nam ngày 30.4.1975, bao nhiêu oan hồn chết oan dưới tay bọn đồ tể nầy tới nay vẩn chưa được giải oan. Vết thương của người dân Huế trong Tết Mậu thân 1968 tới nay vẩn chưa khô máu. Hôm nay dù cho chúng có ngụy biện như thế nào về hành động cấm đốt pháo của chúng, chúng chỉ lừa được các thế hệ trẻ sinh sau đẻ muộn chứ không thể nào gạt được người miền nam từng sinh sống trước 1975, nhất là đồng bào Huế. Vào những ngày đầu năm, chính là ngày giỗ tập thể lớn nhất của những gia đình có thân bị chúng sát hại ở Huế và các nơi khác trên khắp các tỉnh thành ở miền nam.
50 năm qua, vì xấu hổ với những việc chúng đã làm nên đảng vẩn cố tiếp tục che đậy và chối quanh về việc tàn sát những nạn nhân này. Chúng còn phun nọc ngược lại và cho đó là đạn của đồng minh và QL.VNCH bắn vào người dân (?!). Đúng là luận điệu càn rỡ của loài vượn Pắc Pó. Hàng triệu dân Huế và hơn 20 triệu dân miền nam là những nhân chứng sống về tội ác này của cs Bắc Việt chúng chối cũng không được.
Người cộng sản và đám đầu lĩnh Ba Đình trước năm 1975 mừng đảng mừng xuân trên những xác người, xác của dân miền nam và xác của thanh niên miền Bắc đã lầm nghe theo đảng vượt Trường Sơn để rồi bỏ xác ở miền nam. Sau 1975 người cs mừng đảng mừng xuân trên mồ hôi nước mắt và tiếng than khóc của hàng trăm ngàn dân oan bị đảng cướp mất đất đai, nhà cửa và tài sản. Tội ác này cần được nhắc lại trong mổi dịp xuân về, để những người trẻ lớn lên trong chế độ cộng sản thấy được những góc khuất của lịch sử đang bị che đậy và tội ác trời không dung đất không tha của đảng csVN .
Tiếng pháo không còn hiện diện trong mấy ngày Tết từ 1994 cho đến nay, vì đám đầu lĩnh Ba Đình sợ các lực lượng đấu tranh dân Chủ trong nước cũng sẽ dùng tiếng pháo để tổng tấn công chúng giống như chúng đã từng làm trong năm 1968. Thế nên, bọn này rất sợ gậy ông đập lưng ông...Có vay có trả đó là qui luật, chỉ có quỷ đỏ mới sợ tiếng pháo vì tay đã nhúng chàm. Thời gian sẽ trả lời cho đám người này biết thế nào là quả báo nhản tiền, cái ác không bao giờ tồn tại được lâu. Ngày xưa chúng gieo nhân nào thì tương lai chúng sẽ gặt quả nấy, tiếng pháo DÂN CHỦ rồi đây sẽ nổ vang trong các ngày đầu Xuân để tiễn đưa bầy quỷ đỏ về với tổ tiên của chúng, lấy lại công đạo cho dân oan và những nạn nhân đã từng bị chúng giết hại trong những ngày đầu năm và trong suốt cuộc chiến từ năm 1955 đến 1975.
Vo Thilinh 24.1.2018
TẾT QUANG TRUNG
với chiến thắng Xuân Kỷ Dậu 1789


Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789 là mùa xuân huy hoàng nhất của Việt tộc vào cuối thế kỷ 18, cách đây 229 năm, với một chiến thắng thần tốc nhằm răn dạy và đanh tan đoàn quân xâm lược nước lớn "môi hở răng lạnh, với 4 tốt và 12 chử vàng" một bài học nhớ đời! Chiến thắng của Vua Quang Trung đã làm người bạn láng giềng xấu nết từ bỏ mộng xâm lăng VN hơn 200 năm, đúng với những gì mà vua Quang Trung đã nói trước ba quân, trước khi khởi binh ra giải phóng Thăng Long:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.


Tạm dịch:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác (một cái bánh xe cũng không thể trở về)
Đánh cho nó mảnh giáp không còn (một mảnh giáp cũng không toàn vẹn)
Đánh cho nó biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ"
Người viết thấy cần phải đưa ra những con số cụ thể để cho đám đầu lĩnh Ba Đình biết mà tự xấu hổ với HỒN QUANG TRUNG. Đừng làm xấu thêm nhiều thế hệ nửa về tinh thầy yêu nước và quật cường của Việt tộc.
Để có cái nhìn tổng thể về dân số và diện tích thời Mản Thanh với Đại Việt chúng ta, thời mà vua Quang trung đánh Tàu Mản Thanh, chúng tôi sẽ đưa ra những con số cụ thể của đôi bên, để những người trẻ trong nước có sự nhận định và so sánh đúng đắn về cái chiến thắng mà người Việt chúng ta gọi là lớn lao này vào mùa Xuân Kỷ Dậu 1789.
Năm 1789 diện tích nước Trung Hoa rộng 14.000.000 km² với dân số là: 301.000.000 người, còn dt của VN tương đương với bây giờ, nhưng dân số chỉ vào khoảng trên 10 triệu. Nguồn: https://halongvandan.wordpress.com/…/dan-so-vn-phong-tinh-…/.
Nếu như diện tích TC ngày hôm nay là: 9.598.086 km2 dân số là 1,385,538,300 người, trong khi diện tích VN: 331212 km2 dân số chúng ta 92,7 triêu người, như vậy VN quá nhỏ bé trước TC về diện tích lẩn dân số.Nguồn: Wikipedia
Vua Quang Trung một anh hùng dân tộc, một dũng tướng trong việc điều binh diệt giặc thần tốc. Chiến thắng của Quang Trung đã làm tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử. So với sức mạnh của Đại Việt (ĐV) và quân nhà Thanh củng chênh lệch rất nhiều. Quân Thanh là 290.000 quân còn quân ĐV chỉ có 100.000 tức là khoảng 1/3 của quân Thanh. (Con số thiệt hại quân ta 8000, còn quân Thanh trên 20.000 và 3.400 bị bắt là tù binh, sau nầy giao lại cho nhà Thanh). Quang Trung và 10 tướng đã chỉ huy trận đánh lịch sử nầy, để đáng bại Tướng Tôn Sỉ Nghị và 10 tướng khác của nhà Thanh. Ông đã để lại cho hậu thế ngày nay một bài học về tinh thần không biết cúi đầu để giử nước.

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho ngựa xe tan tác

Đánh cho mảnh giáp không còn
Đánh cho nó biết được rằng
Nước Nam anh hùng có chủ!!!

Lời QUANG TRUNG rền sấm vang
Chạm hồn sông núi sử vàng khắc ghi!
Hơn hai trăm năm qua đi
Vẫn còn vọng mãi tiếng người trước quân!

Danh tướng cũng giống Mỹ nhân
Cuộc đời ngắn ngủi... ngàn năm lẩy lừng!
Tây Sơn hào khí hẩy hừng
Napoleon sánh cùng Quang Trung!!!

Tự hào con cháu Hùng Vương
Quang Trung Đại Đế... Bắc phương co vòi!!!
Đảng quen thân phận tôi đòi???
Chúng ta quyết giữ đất trời Việt Nam!!!

Đại Việt khởi quốc Văn Lang
Tuy là bé nhỏ... vững vàng biết bao!
Nguyên Mông cũng phải cúi chào
Mãn Thanh vỡ mộng đánh vào nước ta!!!

Mồng năm Tết... trận Đống Đa
Sầm Nghi... treo cổ... Ta tha giặc chuồn!!!
Dẫu quân Thanh đông ba lần
VẪN THUA CHÍNH NGHĨA... BẠO TÀN XÂM LĂNG!!!

Mùa Xuân Mậu Tuất ngoài sân
Ngồi ôn sử cũ... lặng thầm lệ rơi!
LÀM NGƯỜI PHẢI XỨNG GỌI NGƯỜI
CÚI ĐẦU THẸN ĐẤT - HỔ NGƯƠI NHÌN TRỜI!!!

Đồng bào ơi! Xuân đến rồi
Đông tàn chấm dứt... Dậy thôi lên đường!
Gái giòng con cháu Triệu Trưng
Trai làm sống lại kiêu hùng Quang Trung!!!

Việt Nam sắp mất cộng trung
Đứng lên giành lại non sông sơn hà
Chín mươi mấy triệu đồng bào
Đảng viên bốn triệu... làm sao sánh bằng???


(Thi sĩ Trần tố Ngọc)

Nhìn chiến thắng của Vua Quang Trung để thấy sự khiếp nhược của các đỉnh cao Ba Đình ngày hôm nay, trước sự xâm lăng chiếm đất biển, đảo của Bắc Phương. Chúng khiệp nhược đến nổi phải xây dựng tình hữu nghị và " không làm phức tạp thêm tình hình" với giặc??, những đỉnh cao này không có một động thái nào để lấy lại Hoàng Sa và một số đảo bị mất trong quần đảo Trường Sa. Chúng còn đưa ra một giàn loa với công xuất mạnh và 17.000 bút nô ra trận để để chống giặc, còn QĐND thì bám bờ làm kinh tế và đi dẹp người chống giặc Tàu trên đất Việt.
Cha ông ta đựng nước gìn giử tưng tiu từng thước đất thiêng liêng nầy trên 4800 năm, cần cù dùng xương máu mở rộng đường biên giới. Nhưng tiếc thay cho nước Việt, từ ngày có mặt họ Hồ và đảng csVn, sơn hà bị bọn người nầy đem cầm cố cho bắc phương, một kẻ thù truyền kiếp của Việt tộc từ hơn ngàn năm qua. Khởi đầu là Hồ chí Minh và Phạm Văn Đồng với công hàm 1958 dâng Hoàng-Trường Sa và vùng biển ngoài khơi VN cho đàn anh môi hở răng lạnh của đảng csVN; công hàm nầy được ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, tiếp theo sau đó là các hiệp định về lãnh hải về phân định đường biên giới được đàn em Linh, Mưòi, Phiêu, Mạnh, Trọng, Dũng, Sang.. ký sau nầy, mổi một tên là thẻo một miếng thịt mẹ VN đem triều công cho thiên triều.

*Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung cộng trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25-12-2000 . Sự phân chia theo hiệp định vừa ký là: - 53,23% diện tích Vịnh Bắc Bộ thuộc Việt Nam - 46,77% thuộc Trung cộng. Tổng diện tích toàn Vịnh Bắc Bộ là: 126.250 km2. So với sự phân chia cũ, theo hiệp ước Patenôtre (1885) là 62/38.
Đáng lẽ ta có đủ lý lẽ để đòi thêm, dựa trên công pháp quốc tế về luật biển, thì ta đã bị Tàu cộng ép một cách vô lý để họ lấn tới. Diện tích bị mất thêm là gần 10.000 km2.
* Hiệp định về biên giới Việt Trung
Hiệp ước hoạch định biên giới được hai nước Việt-Trung chính thức ký ngày 30 tháng 12 năm 1999 và 6 tháng sau Quốc hội Việt Nam mới theo lệnh đảng phê chuẩn ngày 6 tháng 6 năm 2000.
Biên giới trên đất liền Việt Nam - Tàu cộng dài khoảng 1.400 km tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung cộng.
Đám đầu lĩnh Ba Đình bán nước vui mừng khi 
nghe tin Hoàng Sa lọt vào tay Tàu Cộng

Sau khi ký HĐ nầy, VN đã bị thua thiệt rất nhiều qua việc phân định mới. Căn cứ trên "Bộ bản đồ đính kèm của HUBG 1999" mà nhà nước csVN tìm cách dấu diếm từ bấy lâu nay vừa được công bố bằng một nguồn tin không chính thức. Kết quả sơ lược cho thấy VN bị mất đất rất nhiều nơi trên đường biên giới :
- Bãi Tục Lãm.


- Làng Trình Tường.
- Núi Khấu Mai.
- Giải Âm Sơn và Lão Sơn.
- Mất đất khu vực sông Bắc Vong.
- Mất đất khu vực Nam Quan.
- Mất đất khu vực ải Chí Mã.
- Mất đất tại ải Nam Quan.
- Thiệt hại tại thác Bản Giốc.


Người xưa các lãnh đạo đất nước chúng ta anh dũng oai hùng như thế! Nhưng ngày nay nhìn lại bọn bán nước Ba Đình, khúm núm bưng bô cho thiên triều để giữ đảng, thật là một mối QUỐC SĨ chưa bao giờ có trong quá trình giữ nước chống ngoại xâm của Việt tộc. Chưa bao giờ thấy một bọn người HÈN vượt không gian và thời gian như vậy. Chúng sợ từng tiếng ho, tiếng rấm của người Hán, thật tộị nghiệp cho kiếp sống hèn của chúng! Cái hèn của đảng csVN và những tướng lãnh của QĐND đã làm linh hồn vua Quang Trung phải nuốt từng giọt lệ đau và căm hờn vì con cháu Lê Chiêu Thống trong đảng csVN, một bọn người khiếp nhược đã dâng đất cho giặc.
Trưỡc thềm Xuân Mậu Tuất 2018 không quên nhắc nhở gương giử nước của người xưa để soi rọi cho các ông, bà gọi là nhân sĩ trí ngũ Hà Thành và Sài Thành trong việc giử gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, những tướng lãnh hèn trong QĐND, đừng tiếp tục khoa trương thêm những quả đấm thép của Quốc Phòng VN (?), nên học tập tinh thần quật cường của Quang Trung hòn là học tấm gương và tư tưởng hèn của Hồ bán nước.
Mậu Tuất 2018 sẽ là mùa Xuân quật khởi của toàn dân, hãy cùng nhau nổi trống Tây Sơn, đánh thức HỒN VIỆT hội tụ CHÍNH KHÍ tạo CHÍNH LỰC để đuổi bọn Tàu ra khỏi biển đông, dành lại chủ quyền thật sự cho thềm lục địa VN và các phần biển đảo và đất biên giới Việt trung đã mất bởi bọn Việt gian đã dâng cống cho giặc. Cuối cùng là phải giựt xập chế độ tay sai của Bắc Kinh thiết lâp một nước VN độc lập, dân chủ tự do và phú cường đưa VN lên tầm cao mới trong cộng đồng nhân loại.

Nguyen Thi Hong 22.1.2018