Powered By Blogger
NHỮNG DANH NHÂN ĐẤT PHƯƠNG NAM
"Bao phen quạ nói với diều
 Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm"..

Câu ca dao trên có từ rất xa xưa, trong đó có nói đến tên một vị võ tướng đã trở thành huyền thoại, đó là “ông Chưởng” - một tên gọi dân gian tôn kính của Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người đã dùng tài năng và đức độ của mình lần đầu tiên đem đến cho Đại Việt mảnh đất phương Nam vô cùng xinh đẹp này.
Các cột mốc trong công cuộc khai khẩn miền Nam.

Năm 1679: Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài di dân người Hoa đến Cù Lao Phố, Biên Hòa, Mỹ Tho.


Năm 1715: Mạc Cửu cùng với người Khơ-me mở đất Hà Tiên chinh phục thiên nhiên, định kế lâu dài.

Năm 1698: Xuân Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược : Lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Gia Định thành huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Đất đai phương Nam lúc này mở rộng ngàn dặm, dân số được hơn bốn vạn hộ. Nay thì vùng đất phương nam là vùng trù phú nhất về  việc sản xuất lúa gạo, thuỷ sản cho cả nước và một phần cho thế giới. Đồng Nai là vùng kinh tế mạnh, đứng hang ba của cả nước về Tổng Sản Phẩm của địa bàn, còn là cửa ngỏ của vùng ĐBSCL. Nói về tiềm năng kinh tế thì Đồng Nai và vùng ĐSCL đã phất triển đồng điệu cả về hai phương diện công nghiệp và nông nghiệp.

Có thể nói, năm 1698 chính là mốc thời gian quan trọng và chính thức xác lập chủ quyền của người dân Việt trên vùng đất phương Nam mà họ đã bỏ công khai phá. Đó cũng chính là sự gặp gỡ đầy dung hòa giữa 2 nguyện vọng: Nguyện vọng sinh cơ lập nghiệp của người dân với Nguyện vọng mở cõi, phát triển củng cố đất đai của chính quyền nhà Nguyễn.

Cuộc nội chiến giữa họ Trịnh và họ Nguyễn dẫn đến cuộc Nam tiến của người Việt Nam thất lợi cho Chiêm Thành (Champa) và Thuỷ Chân Lạp (Water Chenla) tức Nam Bộ ngày nay.

Bài Ca Đất Phương Nam
Tác giả: Lư Nhất Vũ

Nhắn ai đi về miền đất phương Nam
Trời xanh mây trắng, soi dòng Cửu Long Giang
Mênh mông rừng tràm, bạt ngàn dừa xanh.
Tiếng chang đước đong đưa, nhớ người xưa từng ở nơi này
Cho ta thêm yêu dấu chân ngàn năm đi mở đất
Cho ta thêm yêu bầy chim sáo sổ lồng
Ơi, ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò
Ơi ơi ơi hò, ơi ơi ơi hò ơi

Còn đâu đây tiếng vó ngựa phi
Mà ngỡ con tàu vỗ sóng bờ xa
Nỉ non sao tiếng nhạn kêu chiều
Buồm xuôi vô phương Nam phiêu bạt theo thủy triều
Dẫu trải qua thăng trầm giông tố
Qua bao cuộc bể dâu, mãi dâng cho đời
Bài tình ca đất phương Nam
Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò

Cánh chim tung trời về đất phương Nam
Người xưa lưu dấu in hình thuở mang gươm
Bao la tình đời. Màu lục bình trôi.
Hoàng hôn tím ven sông, tiếng hò khoan còn tỏa đôi bờ
Lênh đênh mây trôi, khói sương chiều miên man nỗi nhớ
Nghe trong âm ba từng con sóng vỗ về
Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò
Ơi ơi ơi hò, ơi ơi ơi hò ơi

Chờ trăng lên cất tiếng gọi nhau
Đờn khảy tang tình đượm thắm hồn ai
Biển xôn xao gió lộng tứ bề
Thuyền ai xuôi phương Nam khoan nhặt trôi lững lờ
Đã trải qua bao mùa mưa nắng, qua bao cuộc đổi thay
Mãi dâng cho đời, bài tình ca đất phương Nam
Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò


Ơi ơi ơi hò, ơi ơi ơi hò ơi ơi hò ơi




Ngọc Vạn Công Chúa, ái nữ của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613- 1635) gả cho vua Chân Lạp (Chenla) là Chei Chetta II (1618- 1628) vào năm 1620. Bà được phong làm hoàng hậu Somdach Prea Peaccacyo- dey Preavoreac Ksattrey. Theo lời yêu cầu của Công Chúa Ngọc Vạn, người Việt Nam đầu tiên đặt chân trên đất Mỏ Xoài, Bà Rịa, vào năm 1623. Đợt thứ hai vào Nam Bộ khai thác Biên Hòa vào năm 1658 theo lời yêu cầu của bà Ngọc Vạn với vua Ream Thip Dei Chan (1642- 1659), bào đệ của vua Chei Chetta II. Thời bấy giờ Chân Lạp (Chenla) gồm: Lục Chân Lạp (Land Chenla tức nước Cambodia hiện nay) và Thuỷ Chân Lạp (Water Chenla tức Nam Bộ bây giờ).
Năm 1679 có 3,000 người Hán từ Guangdong (Quảng Đông) đến Đà Nẵng và xin tỵ nan chánh trị. Đó là những người Hán thất bại trong việc chống lại nhà Thanh. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648- 1687) sợ va chạm ngoại giao giữa Đàng Trong và nhà Thanh nên đưa họ vào Nam Bộ. Thủ lãnh của những người Hán này là Trần Thượng Xuyên biến Biên Hòa thành Đông Phố, một trung tâm thương mại quan trọng. Từ Đông Phố họ tiến về phía nam, lập khu thương mại vùng Chợ Lớn và Sài Gòn sau này. Hoàng Tiến và Dương Ngạn Địch khai thác vùng Mỹ Tho.

Vào thế kỷ XVIII Mạc Cửu, một người Hán khác đến khai phá đất Hà Tiên và biến vùng này thành một đồ trường và vùng thương mại sầm uất trên Vịnh Thái Lan. Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích có công khai thác đất Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau, Long Xuyên. Họ Mạc hàng phục chúa Nguyễn để đương đầu với những đợt tấn công xuất phát từ Lục Chân Lạp hay Xiêm La.

Những người Hán theo Trần Thượng Xuyên đến Biên Hòa hay theo Mạc Cửu xuống Hà Tiên được gọi là người Minh Hương. Họ lấy vợ người địa phương Việt Nam hay Khmer và sinh ra những người con lai giữ văn hoá, phong tục cổ truyền của người Hán.

Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) cử tướng Nguyễn Hữu Cảnh hay Nguyễn Hữu Kính (1650- 1700) biệt danh Hắc Báo (vì ông là một dũng tướng có màu da ngăm đen) làm Kinh Lược đất Chân Lạp đúng ra là Thủy Chân Lạp (1698). Kinh Lược Nguyễn Hữu Cảnh Việt Nam hoá phần lãnh thổ phía bắc Thủy Chân Lạp bằng cách thiết lập huyện Phước Long ở Biên Trấn (Biên Hòa) và huyện Tân Bình ở Phiên Trấn (Gia Định bao gồm vùng Sài Gòn- Chợ Lớn sau này). Nhiều cư dân từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định được đưa vào Hai Huyện. Dân Hai Huyện (Phước Long và Tân Bình) gốc Việt làm nghề nông. Người Minh Hương hầu hết làm thương mại và sống ở những vùng đông dân có chợ búa để buôn bán. Từ Hai Huyện người Việt nối liền các dòng sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, sông Tiền Giang và sông Hậu Giang. Họ phải đương đầu với phong cảnh hoang dại nhiều dã thú (cọp, sấu, rắn, trăn v.v), đỉa, muỗi mòng gây bịnh tật và sự tấn công của người Khmer. Cuộc Nam Tiến dừng lại ở Nam Bộ vào năm 1757.

Nam Bộ rộng 65,000 km2 là một vùng đất mới, một vùng đất hợp chủng Việt+ Minh Hương+ Khmers. Trong chừng mực nào đó, vùng đất mới này có vài điểm tương đồng với Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan. Vùng đất màu mỡ đó trở thành vựa lúa của Việt Nam. Họ Nguyễn đã dùng vựa lúa ấy để phục hồi quyền bính và thống nhất xứ sở từ Gia Định đến Thăng Long. Sự thành công của Nguyễn Phúc Ánh trong việc khôi phục quyền hành và lập ra nhà Nguyễn khiến cho vai trò chánh trị của Nam Bộ sớm phát triển. Nhiều nhân vật Nam Bộ gốc Việt như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Hồ Văn Vui hay Hồ Văn Bôi, Võ Tánh (chết trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi), Phạm Đăng Hưng, Nguyễn Văn Thoại, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng hay gốc Hán như Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản hay gốc Khmer như Nguyễn Văn Tồn đều có vai trò quan trọng trên chánh trường Việt Nam dưới triều Nguyễn. 

Hành Chánh & Chánh Trị
Dưới triều vua Gia Long Gia Định Thành có ngũ trấn: Biên Trấn (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), Định Trấn (Định Tường- Mỹ Tho), Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) và Hà Trấn (Hà Tiên). Gia Định Thành có các tổng trấn:

Nguyễn Văn Trương: 1805
Nguyễn Văn Nhơn: 1808- 1810; 1819- 1820
Trương Tấn Bửu: 1810- 1812
Lê Văn Duyệt: 1812- 1815; 1820- 1832
Nguyễn Huỳnh Đức: 1815- 1819
Năm 1833 chức tổng trấn Gia Định Thành không còn nữa. Các Trấn được đổi thành Tỉnh. Ngũ trấn trở thành ngũ tỉnh. Một tỉnh mới được thành lập. Đó là tỉnh An Giang (Long Xuyên). Từ đó có Nam Kỳ Lục Tỉnh (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Đứng đầu mỗi tỉnh có một tổng đốc. Đơn vị hành chánh dưới tỉnh là phủ và huyện đứng đầu bởi tri phủ và tri huyện. Dưới huyện là xã do lý trưởng đứng đầu. Xã được hưởng sự tự trị xã thôn như đã có từ xưa trong lịch sử hành chánh Việt Nam. Do đó có câu: "Phép vua thua lệ làng".
Quốc Trưởng gốc Nam Bộ
Tướng Dương Văn Minh (1916- 2001) là người Nam Bộ đầu tiên giữ chức quốc trưởng chỉ trong vòng 2 tháng của miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa sau cuộc đảo chánh năm 1963.
Sau đó là tướng Nguyễn Khánh (1927- 2013), Làm quốc trưởng  ngày 16 tháng 8 năm 1964.
Quốc trưởng kế tiếp là ông Phan Khắc Sữu, người gốc Cần Thơ, làm quốc trưởng ngày 4.11.1964
Năm 1975 ông Trần Văn Hương (1902- 1982) đảm nhiệm chức vụ tổng thống VNCH được một tuần lễ thì trao quyền cho cựu tướng Dương Văn Minh (28-04-1975). Hai ngày sau VNCH hoàn toàn sụp đổ.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người miền Nam Trung Bộ. Nhưng phu nhân của ông là người Nam Bộ.
Các đệ nhất phu nhân của quốc trưởng Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đều là người tỉnh Định Tường (Mỹ Tho). Tất cả đều là những đệ nhất phu nhân đẹp, giản dị, khiêm tốn và phúc hậu theo gương các hoàng hậu gốc Nam Bộ dưới triều Nguyễn.
Thủ Tướng gốc Nam Bộ
A. Cộng Hoà Nam Kỳ Tự Trị (1946- 1948)
Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh ( 1888- 1946) (thủ tướng: 1946 và tự tử chết cùng năm)
Bác sĩ Lê Văn Hoạch (1898- 1978) (thủ tướng: 1946- 1947)
Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân (1892- 1989) (thủ tướng: 1947- 1949)
B. Quốc Gia Việt Nam (État du Vietnam- 1949- 1955)
Kỹ sư Trần Văn Hữu (1895- 1985) (thủ tướng: 1950- 1952)
Đốc phủ Nguyễn Văn Tâm (1893- 1990) (thủ tướng: 1952- 1953)
C. Việt Nam Cộng Hòa II (1963- 1975)

Nguyễn Ngọc Thơ (1908- 1976) (thủ tướng: 1963- 85 ngày)
Nguyễn Khánh (1927- 2013) (thủ tướng: 1964- 203 ngày)
Trần Văn Hương (1902- 1982) (thủ tướng: 1964- 1965- 84 ngày)
Nguyễn Văn Lộc (1922- 1992) (thủ tướng: 1967- 1968 259 ngày)
Trần Thiện Khiêm (1925-) (thủ tướng: 1969- 1975 05 năm+ 215 ngày)
Nguyễn Bá Cẩn (1930- 2009) (1975- 19 ngày)

Phương Nam sớm trở thành thuộc địa của Pháp nên sớm Tây Phương hóa. Sài Gòn là thành phố quan trọng nhất của Nam bộ nằm trên hữu ngạn sông Sài Gòn. Đó là một giang cảng quan trọng cùng với Hong Kong (Hương Cảng) và Singapore (Tinh Châu) được xem là những hòn ngọc ở Viễn Đông. Sài Gòn bắt đầu tiếp nhận kiến trúc Tây Phương qua Nhà Thờ Đức Bà tựa như nhà thờ Notre Dame ở Paris, nhà Bưu Điện thành phố, ngân hàng, Grand Magasin de Charner, dinh Norodom (Dinh Độc Lập), dinh Thống Đốc (Dinh Gia Long), trường Taberd, trường Chasseloup Laubat v.v.

Tiếng Pháp và chữ quốc ngữ được giảng dạy trước tiên ở Nam Kỳ. Trường thông ngôn ra đời để đào tạo những người học văn hóa pháp để hợp tác với Pháp như những công chức thuộc địa hay thương gia thuộc địa chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp. Đa số những người Nam Kỳ giỏi Pháp văn và quốc ngữ vào thế kỷ XIX là những tín đồ Thiên Chúa Giáo như Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Philippe Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Emmanuel Trần Bá Lộc (tổng đốc Lộc) v.v. Ngoài ra còn có các ông Diệp Văn Cương, Trương Minh Ký. Đó là những người Việt Nam đầu tiên biết tiếng Pháp và quốc ngữ và hợp tác với Pháp sau khi Pháp chinh phục Nam Kỳ.
Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837- 1898) là nhà ngôn ngữ hiếm hoi ở Đông Á. Ông học ở chủng viện Thiên Chúa Giáo trên đảo Penang, Mã Lai. Ông biết nhiều ngôn ngữ và viết hàng trăm quyển sách bằng quốc ngữ và Pháp ngữ. Năm 1865 ông lập ra tờ Gia Định Báo. Đó là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam. Cố nhiên tờ Gia Định Báo không phải là tờ báo hoàn chỉnh như báo chí ngày nay. Pétrus Trương Vĩnh Ký dạy ở Collège des Interprètes (Trường Thông Ngôn) và Collège des Stagiaires (Trường Hậu Bổ), hai trường xưa nhất ở Nam Kỳ. Ông làm thông dịch viên cho Pháp trong các cuộc thương thuyết giữa Pháp và triều đình Huế. Năm 1863 ông làm thông dịch cho hoàng đế Napoléon III khi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ.

Diệp Văn Cương (1862- 1929) học ở Algérie và Pháp. Ông dạy ở trường Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Trường này được xây cất năm 1874 và hoàn thành năm 1877 dưới tên Collège des Indigènes (Trường Bản Địa) sau đổi thành Chasseloup Laubat, tên của vị tổng trưởng bộ Hải Quân và Thuộc Địa của Pháp vào thế kỷ XIX. Tờ Phan Yên Báo do ông Diệp Văn Cương lập ra dựa vào tinh thần của tờ Gia Định Báo của Pétrus Trương Vĩnh Ký trước kia vì Phan Yên: Phiên An: Gia Định. Vậy Phan Yên Báo tức là Gia Định Báo!

Ông Diệp Văn Cương là chồng của công chúa Thiện Niệm, cô của vua Thành Thái (1889- 1907). Tương truyền rằng chính ông vận động với người Pháp đưa Bửu Lân, cháu vợ của ông, lên ngôi tức là vua Thành Thái (1889- 1907). Vua Đồng Khánh (1885- 1889) học Pháp văn từ Pétrus Trương Vĩnh Ký và Diệp Văn Cương.
Những trường học xưa nhất vào thế kỷ XIX ở Nam Kỳ là: Collège des Interprètes, Collège des Stagiaires, Collège d’Adran, Collège des Indigènes sau là trường Chasseloup Laubat, Institution Taberd. Collège là trường trung học đệ nhất cấp (1ère année- 4ème année- trường Cấp II ngày nay). Collège d’Adran bao gồm trường Trung Học Võ Trường Toản và trường nữ Trung Học Trưng Vương gần Sở Thú Sài Gòn sau này.

Trường Taberd là trường tư thục Thiên Chúa Giáo lâu đời ở Nam Kỳ. Trường do Cha Henri de Kerlan (1844- 1877) thành lập năm 1874. Taberd là tên một nhà truyền giáo Pháp ở Nam Kỳ vào thập niên 1830- 1840. Trường Taberd thu hút học sinh Pháp và Việt của trường Collège d’Adran.

Năm 1881 thống đốc Le Myre de Villers cho thiết lập đường xe lửa điện Sài Gòn- Chợ Lớn dài 5.5 km. Cũng năm nầy đường xe lửa Sài Gòn- Mỹ Tho dài 72 km được khởi công và khánh thành vào năm 1885. Ngoài ra còn có đường xe lửa nối liền Sài Gòn- Gò Vấp- Hốc Môn. Mãi đến năm 1933 mới có đường xe lửa Sài Gòn- Lộc Ninh. Ga cuối cùng là ga Bến Đồng Sổ. Đường hỏa xa nầy dài 86 km.

Tây Phương Hóa đối với người Việt Nam vào thế kỷ XIX đồng nghĩa với sự tự do truyền giảng và theo đạo Thiên Chúa, sự phát triển văn hóa Pháp, sự trưởng thành của chữ quốc ngữ La Tinh hóa và sự ra đời và lớn mạnh của khoa học, kỹ thuật Tây Phương từ cái tông- đơ (tondeuse) hớt tóc, dao cạo râu, đôi giày da, cục xà bông, cái áo bành tô (paletot), sơ mi (chemise) đến chiếc tàu hơi nước hay chiếc xe lửa trên thiết lộ v.v.
Những người trí thức Tây học đầu tiên thấm nhuần Pháp ngữ và quốc ngữ là Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Diệp Văn Cương, Đặng Ngọc Oánh v.v. Năm 1920 ông Đặng Ngọc Oánh đại diện vua Khải Định trong lễ khánh thành đền kỷ niệm những người lính Đông Dương chết trong đệ nhất thế chiến ở Nogent sur Marne cách Paris 10.6 km. Tham dự trong buổi lễ này có Albert Sarraut, tổng trưởng bộ Thuộc Địa, thống chế Joffre, người hùng của Pháp trong đệ nhất thế chiến.

Ông Bùi Quang Chiêu (1873- 1945) là kỹ sư canh nông (ingénieur agronome) đầu tiên của Việt Nam. Ông học ở Algérie rồi Pháp và tốt nghiệp kỹ sư năm 1897.

Con trai ông Bùi Quang Chiêu là Louis Bùi Quang Chiêu (đặt tên theo Pháp vì có Pháp tịch) là bác sĩ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Paris. Ông tạo nguồn cảm hứng cho em gái ông là Henriette Bùi Quang Chiêu theo học y khoa. Henriette Bùi là vị nữ bác sĩ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Paris năm 1934. Bà Henriette Bùi sinh năm 1906 và mất ở Paris năm 2012.

Ông Lưu Văn Lang (1881- 1969) xuất thân từ một gia đình nghèo. Ông là kỹ sư bách nghệ (Ingénieur des Arts et Manufactures) đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp École Centrale de Paris vào năm 1904. Ông là nhạc phụ của bác sĩ Trần Văn Đỗ, chú của bà Trần Thị Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu. Ông không cùng lập trường chánh trị với các ông Bùi Quang Chiêu, Trần Văn Thông, Đỗ Hữu Phương, Đỗ Hữu Vị hay Ngô Đình Diệm.

Ông Đỗ Hữu Phương là người Việt Nam có Pháp tịch đầu tiên vào năm 1879. Con ông là Đỗ Hữu Vị (1883- 1916) là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Trường Võ Bị St Cyr nổi tiếng của Pháp. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên lái phi cơ trong quân đội Pháp.
Sau này có trung tướng Nguyễn Văn Hinh (1915- 2004), con của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, là tướng Không Quân trong quân đội Pháp. Ông tốt nghiệp Salon de Provence. Ông là tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia thời quốc trưởng Bảo Đại.
Ông Nguyễn Văn Xuân (1892- 1989) tốt nghiệp École Polytechnique năm 1911. Cấp bực sau cùng của ông trong quân đội Pháp là tướng 03 sao (trung tướng).
Ông Nguyễn Ngọc Bích (1908- 1963) là học viên xuất sắc của École Polytechnique của Pháp. Thân sinh ông Bích là đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương, người đứng đầu giáo phái Cao Đài Bến Tre. Ông Bích theo kháng chiến và bị bắt đưa về Pháp vì có Pháp tịch. Ông trở thành bác sĩ y khoa sau khi bị đưa về Pháp. Ở Paris ông thành lập nhà xuất bản Minh Tân. Ông chung sống với nữ bác sĩ Henriette Bùi một thời gian ngắn thì mất vì bịnh.

Ông Phạm Quang Lễ (1913- 1997) tức Trần Đại Nghĩa, cha đẻ của súng SKZ (Súng Không Zật) cũng là một học viên xuất sắc của École Polytechnique. Giống như ông Lưu Văn Lang và Lê Văn Thới, ông Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa) xuất thân từ một gia đình nghèo. Nhưng cả ba vị nói trên đều là những kỹ sư và nhà hoá học xuất sắc tốt nghiệp các trường nổi tiếng của Pháp.

Ông Kha Vạng Cân (1908- 1982) tốt nghiệp École des Arts et Metiers.
Ông Trần Văn Văn (1908- 1966) tốt nghiệp HEC (Haute Étude Commerciale)
Hai tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim đều tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại Pháp (HEC: Haute Étude Commerciale).
Một người con trai của ông Bùi Quang Chiêu là Camille Bùi Quang Chiêu cũng học ở trường Cao Đẳng Thương Mại danh tiếng của Pháp (HEC).
Ông Trần Văn Trai (1911- 2011) lấy hai bằng tiến sĩ luật và văn chương ở trường Đại Học Sorbonne, Paris.
Ông Vương Quang Nhường (1902- ?) lấy tiến sĩ luật năm 1930. Năm 1935 ông cưới nữ bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu. Nhưng cả hai sớm ly dị. Sau ông là rể của cựu hoàng Thành Thái.

Vào thập niên 1960 hai ông Nguyễn Hữu Châu và Nguyễn Văn Bông (1929- 1971) đều là Thạc sĩ luật khoa. Để được dự thi Thạc Sĩ Luật để dạy đại học thí sinh phải có tiến sĩ và được một quốc gia giới thiệu. Ông Bông được chánh phủ VNCH giới thiệu và sau khi đậu về Sài Gòn làm Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ông Nguyễn Hữu Châu được thái tử Sihanouk của Cambodia giới thiệu nên dạy luật ở Phnom Penh sau về dạy đại học Paris.

Cùng thời gian này ông Nguyễn Ngọc Huy (1924- 1990) lấy tiến sĩ Chánh Trị Học ở Paris. Ông là một giáo sư, một nhà báo, một lý thuyết gia chánh trị, một nhà thơ v.v. Không một học sinh Việt Nam nào không biết bài thơ Anh Hùng Vô Danh trong tập thơ Hồn Việt dưới bút hiệu Đằng Phương của ông.

Linh mục Nguyễn Bá Tòng (1868- 1949) là người Nam Bộ được thụ phong giám mục đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1933.
Ông Nguyễn An Khương (1860- 1931), thân phụ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, là người đầu tiên dịch truyện Tàu ra quốc ngữ. Ông hợp tác cùng Lương Khắc Ninh trong tờ Nông Cổ Mín Đàm (1901).
Ông Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung 1885- 1958) là đốc phủ sứ và là tiểu thuyết gia đầu tiên của Việt Nam (1910). Điều đáng lưu ý là các ông Nguyễn Bá Tòng, Hồ Biểu Chánh, Vương Quang Nhường, Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Bông đều là người Gò Công.
Nhà văn Phú Đức là một Alexandre Dumas của Việt Nam.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc (Tô Văn Tuấn 1914- 1987), Lê Xuyên (Lê Binh Tăng 1927- 2004), Sơn Nam (Phạm Minh Tài 1926- 2008) là những nhà văn Nam Bộ có văn phong và kiến thức chuẩn mực vững vàng.
Bà Nguyễn Thị Khuê tức Sương Nguyệt Anh (Nguyệt Anh góa chồng) (1864- 1921) là con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu). Bà Sương Nguyệt Anh sáng lập ra tờ Nữ Giới Chung (Chuông Nữ Giới) năm 1918. Báo bị đóng cửa sau khi phát hành được vài số!
Ông Lương Khắc Ninh (1862- 1943) là nhà nho học và Tây học làm chủ bút tờ Nông Cổ Mín Đàm (1901), Lục Tỉnh Tân Văn (1908). Năm 1905 ông khai sinh ra ngành hát bộ ở Nam Kỳ.
Ông Nguyễn Háo Vĩnh (1893- 1941) là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp đại học St Joseph của Anh ở Hồng Kông. Cha ông là Nguyễn Háo Văn trong Phong Trào Minh Tân của Gilbert Trần Chánh Chiếu. Vì vậy có tài liệu cho rằng ông là người được gởi sang Nhật ngay từ năm 1905 vì phong trào Minh Tân hưởng ứng Phong Trào Đông Du của nhà cách mạng Phan Bội Châu. Điều này cần phải xét lại vì ông sinh năm 1893. Phong Trào Đông Du ra đời năm 1905. Lúc ấy ông mới 12 tuổi! Có phải chăng năm sinh thật của ông trước 1893? Vì không thể nào ở tuổi 12 mà ông học hết bậc trung học ở trường Chasseloup Laubat được!! Học chế thời Pháp thuộc rất gay go. Nào là thi lên lớp rồi thi lấy bằng. Ở bậc trung học đệ nhất cấp (cấp II bây giờ) thì thi lấy bằng Brevet. Ở bậc đệ nhị cấp (cấp III) thì thi tú tài I rồi tú tài II.
Sau đệ nhị thế chiến có ông Phạm Văn Thuật tốt nghiệp đại học Oxford, Anh Quốc.
Ông Huỳnh Sanh Thông (1926- 2008) là một học giả nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Ông đến Athens, Ohio, Hoa Kỳ, năm 1948 với tư cách người tỵ nạn chánh trị. Ông bị Pháp bắt trong lúc lao động trong tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Hoa Kỳ can thiệp ông được tự do và được sang Hoa Kỳ với tư cách người tỵ nạn chánh trị. Năm 1951 ông tốt nghiệp đại học Ohio về kinh tế học. Ông làm việc cho đại học Ohio, đại học Yale với tư cách là một nhà dịch thuật các tác phẩm liên quan đến văn hóa Việt Nam và giáo sư Việt ngữ v.v.
Ông Huỳnh Văn Lang (1922- ), Nguyễn Văn Thơ và vợ là Phan Thị Nguyệt Minh là những sinh viên Nam Bộ đến Hoa Kỳ từ Pháp trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Về nước ông Lang làm tổng giám đốc Viện Hối Đoái (Office des Changes) (Đệ Nhất Cộng Hoà). Ông Thơ và bà Nguyệt Minh đều có địa vị vững chắc trên chánh trường Nam Việt Nam từ năm 1956 đến 1975. Về sau có các PhD Trương Thị Hoàng Lem, Cao Thị Lể, Cao Văn Hở, Nguyễn Hữu Phước v.v..
SƯU TẦM ( nguồn Internet)12.08.2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét