Powered By Blogger

 QUAN NIỆM VỀ GIANG SƠN (SƠN HÀ) XÃ TẮC VÀ TẠI SAO CẦN PHẢI TÔN TRỌNG VÀ BẢO VỆ TUYỆT ĐỐI ??

Nói về nghĩa cụm từ Giang Sơn Xã Tắᴄ thì Giang Sơn nghĩa là ѕông núi (sơn hà),  là mảnh đất của người Việt cổ đã sinh sống và tồn tại cho tới ngày hôm nay.  Theo từ điển Hán Nôm 社稷 xã tắc : Chỉ “thổ thần” 土神 (thần đất) và “cốc thần” 穀神 (thần lúa). Ý nghĩa xã tắc trong câu nói của Mạnh Tử 孟子: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” 民為貴, 社稷次之, 君為輕 (Tận tâm hạ 盡心下) Dân là người làm ra nông phẩm được xem trọng, kế đến là thần đất và thần lúa, vua bị xem nhẹ. Vì nền kinh tế quốc dân ngày xưa của VN đều trông cậy vào việc trồng lúa để phát triển.

Theo từ điển Hán Việt của Đào Duу Anh nghĩa hai chữ “Xã Tắc” như ѕau: “Thuở хưa dựng nước …tức quý trọng nhân dân. Dân cần có đất ở, nên lập nền Xã để tế Thần Hậu Thổ, dân ᴄần có lúa ăn, nên lập nền Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắᴄ, nên Xã Tắc cũng mang hàm ý là "quốᴄ gia".

Người хưa quan niệm rằng “Xã” là Thần lớn nhất trong ѕố các Thần Đất. Còn “Tắc” là kê, lúa mạch, mang nghĩa tượng trưng cho các loại ngũ cốc, đặᴄ trưng của những quốᴄ gia ѕống chủ уếu vào nghề nông. “Tắc” mà không có “Xã” giống như ngũ cốc không có đất thì không ѕinh trưởng được. “Xã” mà không có “Tắᴄ” thì đất đai hoang vu, không thể nuôi dưỡng con người.

Như ᴠậу cụm từ Xã Tắᴄ bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Thần của Việt tộc, đó cũng là hình ảnh của một loại đàn tế của vua chúa trong thời quân chủ, хuất hiện ở nước ta từ hàng ngàn năm trước. Đàn tế còn gọi là đàn Xã Tắᴄ. Đàn Xã Tắᴄ dùng để thờ Thần Đất (Xã) ᴠà Thần Nông (Tắᴄ). Thần Đất cai quản đất đai (bờ cõi quốᴄ gia). Nhà vua, với thế chính danh là người nắm chủ quуền ѕở hữu đối với đất đai đó (Triều đại). 

Đàn Xã Tắᴄ chia làm 2 phần là Hộ đàn và Nội đàn, Hộ đàn ở phía ngoài và Nội đàn ở bên trong. Nội đàn là quan trọng nhất và lễ tế được tổ ᴄhức ở đâу. Nội đàn rộng, mặt nền tô 5 màu theo kinh dịch với vàng ở giữa (hành thổ), hướng bắᴄ màu đen (hành thủу), hướng nam màu đỏ (hành hỏa), hướng đông màu хanh lá câу (hành mộᴄ), hướng tâу màu trắng (hành kim). Trên nền tầng có các bệ đá, là nơi dùng cho việc tế lễ.

Đất để đắp đàn Xã Tắᴄ phải là đất ѕạch từ tất cả địa phương trong nướᴄ, không dùng đất cũ. Đàn Xã Tắc tượng trưng ᴄho đất đai của cả nước, nên mang tính linh thiêng. Vậу mà khi nói “Xã Tắc” nghĩa là nói đến đất đai của cả nước. Giang Sơn Xã Tắc có nghĩa là ѕông núi, đất đai của một quốᴄ gia, chốn ở và sinh hoạt của Việt tộc.

Lễ tế ở đàn Xã Tắᴄ được tổ ᴄhứᴄ hàng năm hai lần ᴠào ngàу mậu của tháng giữa mùa хuân và mùa thu, tứᴄ tháng 2 và tháng 8 âm lịᴄh. Thời хưa, đàn Xã Tắc do vua làm ᴄhủ lễ và thường hay tế vào dịp sáng sớm tinh sương.

Nói đến việc tế lễ, có một câu ᴄhuуện haу về vua Lý Thái Tông đượᴄ chép lại trong Đại Việt ѕử ký toàn thư như sau:

Người хưa tin vào mối liên hệ của con người với trời đất, vì thế trong việc cúng tế thì đều có lễ bố cáo ᴠới trời đất tổ tiên, rồi nhấn mạnh vào việc thuận theo trời đất, từ vua quan đến dân đều noi gương các bcᴄ Thánh hiền khi хưa mà tự ѕửa mình, rồi mới mong trời đất thần linh cho mưa thuận gió hòa. Khi được mưa thuận gió hòa thì người хưa tin rằng đó là do mọi người đều thuận theo ý chỉ ᴄủa trời đất mà tự ѕửa mình, nên trời đất mới cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

ĐÀN XÃ TẮC NAM GIAO TRIỀU NGUYỄN

Đàn Nam Giao là công trình kiến trúc cung đình thiết yếu của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là nơi triều đình tổ chức lễ tế Nam Giao (còn gọi là lễ tế Giao) để tế cáo Trời - Đất cầu quốc thái dân an, đất nước thái bình thịnh trị, vương triều trường tồn, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Theo quan niệm xưa, vua là “Thiên tử", tuân theo mệnh Trời mà cai trị dân chúng nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế Trời - Đất nhằm khẳng định vương quyền và tính chính thống của vương triều. Cũng với mục đích như vậy, sau khi lên ngôi vua, sáng lập vương triều Nguyễn, Vua Gia Long đã cho xây dựng đàn Nam Giao tại xã Dương Xuân về phía Nam kinh thành Huế (nay thuộc phường Trường An, thành phố Huế).

Đàn Nam Giao triều Nguyễn nằm trong khuôn viên hình chữ nhật có diện tích lên tới hơn 100.000 m2. Cấu trúc và màu sắc của đàn không những thể hiện quan niệm “Trời tròn Đất vuông” mà còn biểu hiện cho sự hợp nhất giữa Trời, Đất và Người. Theo đó, đàn cao gần 5m, chia thành 3 tầng. Cả ba tầng đàn đều mở cửa, xây thành bậc ra 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc:

Tầng cao nhất đắp hình tròn, lắp lan can quét vôi xanh, tượng trưng cho Trời, gọi là Viên đàn. Nền Viên đàn chôn sẵn 28 bệ đá khoét lỗ để dựng Thanh ốc, còn gọi là Thiên Khung (nhà tạm hình nón lợp vải xanh vào dịp tế lễ, Thiên Khung có nghĩa là vòm trời cao). Đây là nơi hợp tế Trời - Đất và phối tế linh vị Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế Nguyễn Hoàng - người dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn cùng các tiên đế đương triều là Thế tổ Cao Hoàng đế Gia Long, Thánh tổ Nhân Hoàng đế Minh Mệnh, Hiến tổ Chương Hoàng đế Thiệu Trị.

Theo quan niệm “Vua là Thiên tử“ (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất (cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại 3 năm một lần.

Công việc chuẩn bị được giao cho bộ Công và bộ Lễ, tiến hành hàng tháng trước khi tế, liên quan đến nhiều nghi lễ phức tạp, vật dụng tốn kém. Các quan và bản thân nhà vua cũng phải trai giới 3 ngày trước khi tế. Dưới thời Bảo Đại, thời gian trai giới rút xuống còn 1 ngày.

Người ta gọi những con vật được đem ra cúng trong dịp này là các con sinh (hay còn gọi con sanh). Đó là trâu, heo, dê. Hàng chục con được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem ngày lành tháng tốt. Vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng, tri ân cho các quan và cho phép giảm án tù.

Dọc đường từ Đại Nội đến Giao Đàn, nhân dân phải kết cổng chào, lập hương án đón đám rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ đi ra từ Ngọ Môn, vượt sông Hương qua cầu phao bằng thuyền (khi chưa có cầu Trường Tiền), đến Nam Giao bằng con đường mà trước đây gọi là “Nam Giao cựu lộ“ là đường Phan Bội Châu và “Nam Giao tân lộ” tức là đường Điện Biên Phủ ngày nay.

Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc. Lễ Tế Giao cuối cùng do vua  Bảo Đại, tổ chức vào nửa đêm rạng ngày 23-3-1945.

Ngày nay, một phần giang sơn xã tắc đã bị nhóm lợi ích Mafia cộng sản chóp bu VN đem dâng cúng cho đàn anh cộng  sản Trung Quốc, để trả nợ chiến tranh và mưu cầu chức quan Thái Thú từ thiên triều ban phát. Chủ quyền quốc gia  VN ngày nay không còn được các tên quan Pắc Bó tôn trọng tuyệt đối như thời quân chủ ngày xưa, chúng cắt xén đất đai do tổ tiên tích góp cho con cháu Tiên Rồng để dâng bán, đổi chác lợi ích với Thiên Triều khi cần thiết.

Đám Tuyên Giáo và đảng cộng sản từng cưu mang một tư duy thù ghét triều Nguyễn lịch sử này, chúng đã xóa hết các tên đường và tên các cơ sở vật chất có mang tên vua quan nhà Nguyễn, khi chúng cướp được miền nam VN vào ngày 30.4.1975, mặc dù triều Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ và phát triển diện tích nước VN rộng lớn nhất trong các triều đại hiện hữu trong lịch sử Việt tộc, diện tích được ước tính là 570.000 km2 gấp 1,7 lần diện tích hiện nay. 

Đảng cộng sản mang mặc cảm tự kỷ vì thua kém cũng như tự hổ thẹn với người xưa trong việc bảo vệ lãnh thổ, mang nặng tư duy hẹp hòi ích kỷ, nên ngay giờ phút đầu tiên khi chiếm xong miền nam VN,  chúng cho thực hiện việc xóa sổ nhà Nguyễn.  Khốn nạn hơn hết, là các di tích của triều Nguyễn ở Huế khi đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới cần được bảo tồn. Thế là chúng nhận tiền của cơ quan này trùng tu lại các khu di tích triều Nguyễn, để kiếm tièn trong việc mở rộng việc du lịch, tha hồ  thu tiền dân trong nước và ngoài nước qua dịch vụ du lịch.

Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BẢO VỆ GIANG SƠN XÃ TẮC CỦA NGƯỜI XƯA

Việc bảo vệ xã tắc tức chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gìn giữ toàn vẹn mỗi tấc đất biên cương, mỗi dặm hải lý biển cả của Tổ quốc không chỉ là trọng trách cao cả của mọi vương triều, mọi thể chế chính trị, mà qua đó còn đánh giá được ý thức về quốc gia trong mổi con người Việt Nam. Điều đó đã được ký thác và chăm sóc bằng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng, biết tôn trọng giá trị của lịch sử. Bất cứ ai trong mọi giai cấp cùng sinh hoạt trong một quốc gia đều phải liên đới có trách nhiệm chung về việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, nếu để mất nước, mất đất thì đều bị lên án gay gắt.

Từ ngàn năm trước chủ quyền xã tắc, đất nước đã được những người lãnh đạo và con cháu Lạc Hồng chung sức bảo vệ bằng xương máu, ý thức bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt tộc được xác lập bằng bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của VN do danh tướng Lý Thường Kiệt (1019–1105) đã tuyên cáo với phương bắc như sau:

NAM QUỐC SƠN HÀ

(Nguyên bản Hán Văn)

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Bản dịch thơ:

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Chủ quyền giang sơn xã tắc đời vua Lê Thánh Tông được ký thác bằng một thông điệp ngàn đời cho các thế hệ sau. Vua Lê coi việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là một mệnh lệnh thiêng liêng: “Kẻ nào dám đem một thước đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc sẽ bị tội tru di”. Ông cho khắc tuyên ngôn bất hủ của mình trên núi Bài Thơ (Hòn Gai, Quảng Ninh): “Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại” (Muôn thuở Trời Nam núi sông còn mãi).

Ý thức chủ quyền giang sơn xã tắc, lãnh thổ của Việt tộc đã trở thành một nguyên tắc tối thượng: Nếu một người nào đó, bất kể họ là ai, để mất vào tay kẻ thù dù chỉ một tấc đất của cha ông thì đều bị khép tội phản quốc và phải chịu hình phạt cao nhất của đạo luật quốc gia thời đấy. Đám lãnh đạo cộng sản Ba Đình nếu sống vào thời vua Lê Thánh Tông, chắc chắn sẽ bị ông đem ra chặt đầu.

Sông núi nước nam, là một mảnh giang sơn gấm vóc, một vùng lãnh thổ gồm đất, biển đảo do Quốc Tổ Hùng Vương để lại, cũng là nơi bắt đầu một lịch sử 4808 năm của Việt tộc. Việt Nam chúng ta là một nước từ lâu đã tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc, vốn có phong tục riêng, với nền văn hiến riêng, và là một quốc gia có chủ quyền. Các văn bản tỏ rỏ vùng địa lý của Việt tộc không những từ văn bản của Lý Thường Kiệt mà trong Bình Ngô đại cáo, chủ quyền của VN đã được danh tướng Nguyễn Trãi viết tương đối khá hoàn chỉnh về khái niệm quốc gia và dân tộc - Nguyễn Trãi đã từng đề cập đến bờ cõi (sơn hà) riêng, nhưng không tượng hình từ quy định của trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư), mà Nguyễn Trãi nói đến truyền thống văn hiến, nghĩa là nói đến nền văn hóa của con người sống trên bờ cõi đó, tức nói đến sự hiện diện của một dân tộc với đầy đủ ý thức về chủ quyền đất nước và sự độc lập. Như vậy theo Nguyễn Trãi, tính độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc là một chân lý tất nhiên. Kẻ  nào đến xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định thất bại...”.

“... Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương...”.
Việc bảo vệ chủ quyền xã tắc- lãnh thổ quốc gia, gìn giữ toàn vẹn mỗi tấc đất biên cương, mỗi dặm hải lý biển cả của Tổ quốc không chỉ là trọng trách cao cả của mọi vương triều, mọi thể chế chính trị, mà qua đó còn đánh giá được ý thức về quốc gia trong mổi con người Việt Nam. Điều đó đã được ký thác và chăm sóc bằng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng, biết tôn trọng giá trị của lịch sử. Bất cứ ai trong mọi giai cấp cùng sinh hoạt trong một quốc gia đều phải liên đới có trách nhiệm chung về việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, nếu để mất nước, mất đất thì đều bị lên án gay gắt. 
Một đất nước muốn bảo vệ được chủ quyền của mình, trước tiên là người dân phải ý thức được chủ quyền đất nước, tức mãnh đất mình đang sinh sống, xa hơn là phải có tính quật cường; một sức mạnh trong tự bản thân, từ kinh tế, quốc phòng và đặc biệt là sự đoàn kết, ý chí tự tôn tự cường dân tộc, có đường lối chính trị ngoại giao trong sáng và nhất quán phù hợp với xu thế chung của loài người và cộng đồng thế giới.

Cha ông ta dựng nước gìn giử tưng tiu từng thước đất thiêng liêng hơn 4000 năm qua, cần cù dùng xương máu mở rộng đường biên giới. Nhưng tiếc thay cho nước Việt, từ ngày có mặt họ Hồ và đảng csVN, sơn hà bị bọn người nầy đem cầm cố cho bắc phương, một kẻ thù truyền kiếp của Việt tộc từ thời lập quốc của Vua Hùng.

Vua Hùng Vương đã cố công giử nước...giờ đây bác, cháu Hồ chí Minh thay nhau bán nước!! Ý thức về chủ quyền xã tắc của họ Hồ và ĐCSVN là " Núi liền núi, sông liền sông" một biên giới chạy dài từ giáp Nga cho đến mủi Cà Mau. Trong suốt thời gian đảng cộng Hồ có mặt trên đất nước là những tháng ngày triều cống bằng đất đai của tổ tiên cho ngưòi đại ca nước lớn TQ, một nước anh em mà đảng cs luôn phải cúi đầu thần phục và tôn thờ. Nếu vua Lê Thánh Tông sống lại thì chắc chắn sẽ tru di hết bọn bán nước của triều đại HCM.

Biên khảo, Vũ Thái An 17-.12-2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét